08 November, 2009 06:33
NTT: Câu chuyện này tôi nghe Giáo sư Trần Quốc Vượng nói hồi tôi làm học trò của ông, và cũng nghe nói một lần đến Mỹ ông đã kể chuyện này nên bị "đì" một thời gian. Nhà văn Sơn Tùng viết nhiều sách về cụ Hồ cũng nói chuyện này, nhưng cũng chỉ là nói chuyện hoặc viết thành bài rồi lưu truyền. Ở nước ngoài, người ta in chuyện này vào sách cũng đã lâu. Nhưng ở Việt Nam thì chuyện này chỉ lưu truyền không chính thức. Gần đây, lần đầu tiên tôi thấy một Website của Nhà nước công bố chuyện này, đó là Website của huyện Nam Đàn quê cụ Hồ: http://www.namdan.gov.vn/ . Đó là câu chuyện cụ Hồ mang họ Hồ (Quỳnh Đôi) chứ không phải họ Nguyễn Sinh (Kim Liên). Vì thế mới có chuyện ông Nguyễn Sinh Hùng (hồi còn làm Bộ trưởng Tài chính) và ông Hồ Xuân Hùng (hồi còn làm Chủ tịch Nghệ An) đã "bí mật" đưa mộ bà nội của cụ Hồ là bà Hà Thị Hy lên núi Động Tranh trên dãy Đại Huệ gần Lăng mộ mẹ cụ Hồ là bà Hoàng Thị Loan. Tôi nghe Hồ Xuân Hùng kể chuyện xây mộ bà Hà Thị Hy khi cùng đến thắp hương cho bà, và còn được biết Hồ Xuân Hùng đã nói với Nguyễn Sinh Hùng lúc xây Lăng: "Tôi mới là cháu thật của Bác Hồ"...
NHỮNG GIAI THOẠI VỀ HỒ CHÍ MINHTrần Quốc Vượng
"... câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết. Chỉ là lời truyền miệng dân gian ...phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ....
... Đến đây tôi sẽ khép (lại) bài kể lể đã khá dài dòng của mình bằng câu chuyện một người tuy có tên tưổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng lắm, hay đúng hơn cả là đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với một người có tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói về các nhà Nho, các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng cả).
Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy.
Phó bảng là một học vị dưới tiến sĩ, chĩ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-31).
Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gởi Bộ Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là sous docteur [1] như ngày nay ta gọi là phó tiến sĩ.
Quê hương cụ, là làng Kim Liên, tên Nôm là làng Sen huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi cụ đã làm Thừa biện Bộ Lễ ở Huế rồi Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị mất chức quan), cụ phiêu dạt về Sài Gòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để có chút cơm rượu... Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt Nam.
Người ta làm như thế vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan vợ cụ phó bảng và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng như bản thân Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội, đều hiện hữu ngoài ý thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị, khiêm nhường...
Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.
Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là lan truyền thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ.
Sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn truyện bằng tiếng Anh Life and Death in Shanghai, [2] đã được dịch ra tiếng Việt: Ở xã hội xã hội chủ nghĩa, cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".
Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của dòng họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu về lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thai Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ của cụ Hồ 45-46 rồi làm Viện trưởng Viện trưởng Viện Văn học, là Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc. Như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: "Hồng nhan đa truân" (Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên). Hay như Nguyễn Du than thở giùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "Rằng hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu").
Và ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài").
Cô Đèn, Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài ggái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai là Nguyễn Sinh Thuyết, và người con trai này cũng đã có vợ).
Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này, như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ, mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết, vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": Người con trai này - được ông nhận làm con, lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng, Hoàng Thị Loan, mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ăn ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ, làng Chùa, hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi là ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê mẹ hay là quê ngoại. Khi cụ Tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ Tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc, với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày sau) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc giùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng. Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội danh nghĩa, tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh ngày sau) về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhận chức quan (1904) ở Bộ Lễ, đem theo hai con trai vô Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi Tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sài Gòn rồi Lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa...
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau, khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gặn làng Sen! Hay là sau đó nữa chả lẽ không khi nào cụ phó bảng Huy hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích thân phụ mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này... Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa. Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê, lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ, tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ, đã trở thành "huyền thoại". Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần gụi cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi) về sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp Cách mạng tháng Tám. Và sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý không ưa gì cụ Hồ... Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh, tỉnh lỵ Nghệ An, cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội"! [3]
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê. [4]
Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý". (Viết không [bao giờ] hết lời nói, Lời nói không [bao giờ] hết ý!).(trích: Trong cõi. Nxb Trăm Hoa, California, 1993, tr. 252-259)
Nguồn: http://www.namdan.gov.vn
NTT: Câu chuyện này tôi nghe Giáo sư Trần Quốc Vượng nói hồi tôi làm học trò của ông, và cũng nghe nói một lần đến Mỹ ông đã kể chuyện này nên bị "đì" một thời gian. Nhà văn Sơn Tùng viết nhiều sách về cụ Hồ cũng nói chuyện này, nhưng cũng chỉ là nói chuyện hoặc viết thành bài rồi lưu truyền. Ở nước ngoài, người ta in chuyện này vào sách cũng đã lâu. Nhưng ở Việt Nam thì chuyện này chỉ lưu truyền không chính thức. Gần đây, lần đầu tiên tôi thấy một Website của Nhà nước công bố chuyện này, đó là Website của huyện Nam Đàn quê cụ Hồ: http://www.namdan.gov.vn/ . Đó là câu chuyện cụ Hồ mang họ Hồ (Quỳnh Đôi) chứ không phải họ Nguyễn Sinh (Kim Liên). Vì thế mới có chuyện ông Nguyễn Sinh Hùng (hồi còn làm Bộ trưởng Tài chính) và ông Hồ Xuân Hùng (hồi còn làm Chủ tịch Nghệ An) đã "bí mật" đưa mộ bà nội của cụ Hồ là bà Hà Thị Hy lên núi Động Tranh trên dãy Đại Huệ gần Lăng mộ mẹ cụ Hồ là bà Hoàng Thị Loan. Tôi nghe Hồ Xuân Hùng kể chuyện xây mộ bà Hà Thị Hy khi cùng đến thắp hương cho bà, và còn được biết Hồ Xuân Hùng đã nói với Nguyễn Sinh Hùng lúc xây Lăng: "Tôi mới là cháu thật của Bác Hồ"...
NHỮNG GIAI THOẠI VỀ HỒ CHÍ MINHTrần Quốc Vượng"... câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết. Chỉ là lời truyền miệng dân gian ...phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ....
... Đến đây tôi sẽ khép (lại) bài kể lể đã khá dài dòng của mình bằng câu chuyện một người tuy có tên tưổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng lắm, hay đúng hơn cả là đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với một người có tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói về các nhà Nho, các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng cả).
Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy.
Phó bảng là một học vị dưới tiến sĩ, chĩ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-31).
Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gởi Bộ Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là sous docteur [1] như ngày nay ta gọi là phó tiến sĩ.
Quê hương cụ, là làng Kim Liên, tên Nôm là làng Sen huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi cụ đã làm Thừa biện Bộ Lễ ở Huế rồi Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị mất chức quan), cụ phiêu dạt về Sài Gòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để có chút cơm rượu... Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt Nam.
Người ta làm như thế vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan vợ cụ phó bảng và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng như bản thân Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội, đều hiện hữu ngoài ý thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị, khiêm nhường...
Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.
Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là lan truyền thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ.
Sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn truyện bằng tiếng Anh Life and Death in Shanghai, [2] đã được dịch ra tiếng Việt: Ở xã hội xã hội chủ nghĩa, cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".
Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của dòng họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu về lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thai Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ của cụ Hồ 45-46 rồi làm Viện trưởng Viện trưởng Viện Văn học, là Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc. Như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: "Hồng nhan đa truân" (Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên). Hay như Nguyễn Du than thở giùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "Rằng hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu").
Và ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài").
Cô Đèn, Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài ggái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai là Nguyễn Sinh Thuyết, và người con trai này cũng đã có vợ).
Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này, như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ, mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết, vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": Người con trai này - được ông nhận làm con, lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng, Hoàng Thị Loan, mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ăn ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ, làng Chùa, hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi là ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê mẹ hay là quê ngoại. Khi cụ Tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ Tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc, với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày sau) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc giùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng. Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội danh nghĩa, tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh ngày sau) về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhận chức quan (1904) ở Bộ Lễ, đem theo hai con trai vô Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi Tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sài Gòn rồi Lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa...
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau, khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gặn làng Sen! Hay là sau đó nữa chả lẽ không khi nào cụ phó bảng Huy hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích thân phụ mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này... Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa. Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê, lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ, tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ, đã trở thành "huyền thoại". Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần gụi cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa.
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi) về sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp Cách mạng tháng Tám. Và sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý không ưa gì cụ Hồ... Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh, tỉnh lỵ Nghệ An, cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội"! [3]
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê. [4]
Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý". (Viết không [bao giờ] hết lời nói, Lời nói không [bao giờ] hết ý!).(trích: Trong cõi. Nxb Trăm Hoa, California, 1993, tr. 252-259)
Nguồn: http://www.namdan.gov.vn
26 Comments on "NHỮNG GIAI THOẠI VỀ HỒ CHÍ MINH"
Tự giới thiệu
- Nguyễn Trọng Tạo
- Chia cho em một đời Thơ...
08/11/2009, 10:02Gớm chết, cái nước Việt Nam này thiếu “ông” gì chuyện giai thoại với huyềnh thoại!
Mẹ Thánh Gióng vô tình ươm bàn chân vào một bàn chân lạ ngoài vườn khoai rồi mang thai sinh ra thánh Gióng? Về chuyện Thánh mẫu Man Nương. “Man Nương nấu nướng các thức đã xong mà sư sãi tụng kinh vẫn chưa dứt, không rỗi để ăn. Man Nương ngồi trông chừng, chẳng dè, ngủ gật ngay nơi bậc cửa, rồi chẳng ngờ, ngủ say quên cả đói. Khi sư sãi tụng kinh xong, ai về phòng nấy, Man Nương vẫn nằm ngay bậc cửa một mình, sư Già La Đồ Lê không ngờ nên lỡ bước chân qua, vì thế, Man Nương bỗng thụ thai…”. Đạm Thị, mẹ vua Đinh Tiên Hoàng ra sông tắm bị con rái cá hãm hiếp mà mang thai sau đó sinh ra ĐTH…?! . Thời nay cũng khối ông nọ, bà kia có xuất xứ thân phận “bí mật” quân sự như thời chiến tranh!
Tính yêu vụng trộm mới thăng hoa, con cái họ mới thông minh và tài giỏi bác nhé! Bàn chi những chuyện “dưới thắt lưng “(Nguyễn Hoài Vân), cho mịt… Hí!
08/11/2009, 14:55E đồng ý với haixuan. Tại sao mình không trân trọng 1 người cả cuộc đời hy sinh cho dân tộc mà cứ phải nghe bọn "trời ơi" ấy viết linh tinh mà bôi xấu dòng dõi người khác. Dù sao Người cũng xứng đáng được tôn vinh anh ạ.
Anh góp sức cùng enm về mảng văn hóa dừa Việt Nam nhé.
Trân trọng
08/11/2009, 16:21@ anh Tạo: Em đọc kỹ bài viết trên đây mà anh đăng lại! Không tin cũng chẳng đặt câu hỏi làm gì, đó chỉ như thêm một bài tham khảo về Bác Hồ thôi! Biết bao giai thoại và những bí ẩn xung quanh những vĩ nhân! ta đọc được bài nào thì hay thêm bài ấy, chứ đừng kết luận gì cả. Chuyện những bí ẩn về Hồ Chủ Tịch, không chỉ bà con ta mới thắc mắc đâu, dân Pháp cũng thắc mắc ghê gớm lắm đó. Hôm rồi em vừa thương thảo bản quyền, ký xong một bản hợp đồng cuốn sách cho một NXB ở Việt Nam có tựa đề Hồ Chí Minh, được NXB Bản Seuil (Pháp) ấn hành năm 1967, tái bản có bổ xung năm 1976, do nhà báo gạo cỗi nỗi lạc Pháp, Jean Lacouture viết. Cuốn sách viết lại suốt chặng đường hoạt động của Hồ Chủ Tịch tại hải ngoại. Cũng có viết sơ qua về tiểu sử học đường và miền quê Nam đàn Nghệ an. Nói chung là rất xúc động. Em đã đọc nhiều sách về HCM, nhưng khi đọc cuốn sách này, một người nước ngoài viết về vị lãnh tụ của chúng ta, em lại thấy tự hào vì quê mình (tổ quốc mình) và (quê anh hi hi!) đã có những người con như vậy! Sách cũng kể về Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám... Jean Lacouture đã đánh giá Hồ Chí Minh là một trong những nhà Quốc tế Cộng sản Đảng nỗi lạc nhất, một nhà văn hóa tài ba. Ngày mùng 6 tháng 9 năm 1969, ông đã viết một bài báo dài bốn trang liền đăng trên thời báo Le Monde, một bái báo như tiếng khóc thương tiếc một vĩ nhân khi dời trần thế về với giới Người Hiền.
Em chúc anh luôn khỏe nha. Anh mới ra một bái hát mới ư, em vẫn chưa nghe, sẽ vào nghe ngay bây giờ.
08/11/2009, 20:22anh Nguyễn Trọng Tạo!
Vào giữa năm 2007, Thanh Cao cũng đã được đọc bút ký "chuyện ở sân sau" của Trường Lam - một người trong họ của Bác Hồ viết về vấn đề này. Nay trang web của UBND huyện Nam Đàn lại đưa bài viết của Giáo sư Trần Quốc Vượng và cả những thông tin anh cung cấp trên vnweblog thì chúng ta có đủ cơ sở để nhận biết chính xác về nguồn cội của Bác. Như người ta nói, cái gì của lịch sử thì phải trả lại cho lịch sử,đó là tất yếu, phải không anh?
10/11/2009, 16:26Gớm chết, cái nước Việt Nam này thiếu “ông” gì chuyện giai thoại với huyềnh thoại!
Mẹ Thánh Gióng vô tình ươm bàn chân vào một bàn chân lạ ngoài vườn khoai rồi mang thai sinh ra thánh Gióng? Về chuyện Thánh mẫu Man Nương. “Man Nương nấu nướng các thức đã xong mà sư sãi tụng kinh vẫn chưa dứt, không rỗi để ăn. Man Nương ngồi trông chừng, chẳng dè, ngủ gật ngay nơi bậc cửa, rồi chẳng ngờ, ngủ say quên cả đói. Khi sư sãi tụng kinh xong, ai về phòng nấy, Man Nương vẫn nằm ngay bậc cửa một mình, sư Già La Đồ Lê không ngờ nên lỡ bước chân qua, vì thế, Man Nương bỗng thụ thai…”. Đạm Thị, mẹ vua Đinh Tiên Hoàng ra sông tắm bị con rái cá hãm hiếp mà mang thai sau đó sinh ra ĐTH…?! . Thời nay cũng khối ông nọ, bà kia có xuất xứ thân phận “bí mật” quân sự như thời chiến tranh!
Tính yêu vụng trộm mới thăng hoa, con cái họ mới thông minh và tài giỏi bác nhé! Bàn chi những chuyện “dưới thắt lưng “(Nguyễn Hoài Vân), cho mịt… Hí!
Viết bởi haixuan 08 Nov 2009, 10:02
Nhất trí haixuan. Nhưng HCM ko giống Man Nương. Chỉ có bố ông ấy thôi.. HCM là người ra đời đàng hoàng
10/11/2009, 16:30E đồng ý với haixuan. Tại sao mình không trân trọng 1 người cả cuộc đời hy sinh cho dân tộc mà cứ phải nghe bọn "trời ơi" ấy viết linh tinh mà bôi xấu dòng dõi người khác. Dù sao Người cũng xứng đáng được tôn vinh anh ạ.
Anh góp sức cùng enm về mảng văn hóa dừa Việt Nam nhé.
Trân trọng
Viết bởi phuthuygaodua 08 Nov 2009, 14:55
Nhưng phải xem bọn "trời ơi" là ai? Chắc không phải GS Trần Quốc Vượng?
Anh đang nghĩ đến dừa...
11/11/2009, 01:53Anh ạ, nếu ta có 1 gia phả như thế, e tin rằng k ai muốn nói ra.
Vì vậy, ý đồ của ai đó là gì? Tại sao họ lại làm như vậy?
E cám ơn anh đang nghĩ đến dừa và chắc cũng đang bực gáo dừa lắm đấy.
E đang truy tìm nguồn gốc của dừa VN đây.
Quê anh cũng nhiều dừa và có cả làng Kẻ Dừa nữa. E tin rằng anh cũng có những kỷ niệm về dừa.
Anh ngủ ngon nhé.
12/11/2009, 10:00Cháu xin tự giới thiệu cháu là Hường, biên tập viên ban Tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. Thưa bác, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 của chúng cháu có sử dụng một đoạn viết Cây chuối trong đời sống Việt Nam của bác. Giờ chúng cháu muốn gửi bác tiền bản quyền. Mặc dù không nhiều (100.000đ) nhưng dù sao chúng cháu cũng muốn gửi lại bác nhưng không biết địa chỉ của bác. Nếu có thể, bác liên lạc lại cho cháu nhé. Số điện thoại của cháu 04.35121525.
12/11/2009, 10:23Vào thăm anh trân trọng mời anh có dịp ghé thăm anh em Sông Hãn
12/11/2009, 12:00Kính Bác Tạo
Em thì đọc bài của anh Hồ Sĩ Sênh ( Trwowngf Lam ) rồi và cũng đã gọi điện cho anh ấy mà chwa vào thăm anh ấy đuoc.
Ngày ấy em mang về quê bài viết này - Tý nữa thì bị ...Tống giam
Giờ thì nhiều bài viết về đề tài này lắm
Chúc Bác sức khỏe
23/11/2009, 02:59khéo lừa khéo ăn, câu nói đén trẻ con cũng biết, không lừa không làm chính trị được.
09/02/2010, 14:03Em mở trang htp://www.namdan.gov.vn nhưng thấy không có giai thoại này.Em đã uống rượu với bác hồi tháng 5 năm ngoái tại nhà sáng tác Vũng Tàu. chúc bác khỏe!
03/05/2010, 10:24TÔI NGHĨ: VỀ MỘT VĨ NHÂN NHƯ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH CHÚNG TA NÊN NHÌN VÀO SỰ NGHIỆP VĨĐẠIÀ NGƯỜI ĐÃ ĐỂ LẠI CHO DÂN TỘC. TẤT CẢ NHỮNG CHUYỆN KHÁC NGOÀI SỰ NGHIỆP CỦA NGƯỜI ĐỀU KHÔNG CÓ Ý NGHĨA GÌ. TÔI NHẬN THẤY CÂU CHUỆN TRÊN ĐÂY THỰC CHẤT CHÍNH LÀ TRÒ BÔI NHỌ KHÉO LÉO THÂM HIỂM CỦA VÀI NHÓM NGƯỜI BẤT CHÍNH! ĐỪNG TƯỞNG RẰNG BỌN BẤT CHÍNH KHÔNG CÓ HỌC VỊ CAO, KHÔNG CÓ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN CAO, KHÔNG CÓ THÀNH TỰU KHOA HỌC, VĂN HÓA! CHÍNH NHỮNG HẠNG TRÍ THỨC BỊ LƯU MANH HÓA MỚI CỰC KỲ NGUY HIỂM! Ở ĐÂY TÔI KHÔNG BÀN CHUYỆN ĐÚNG SAI CỦA ''GIAI THOẠI'' MÀ MUỐN NÓI ĐẾN TƯ CÁCH KẺ SĨ CỦA THỨC GIẢ THỜI NAY! THEO TÔI CÁI LỐI BÔI NHỌ KIỂU ''TIỂU NÔNG '' NÀY CẦN PHẢI BÓC TRẦN -LÊN ÁN! HƠN NỮA Ở VN, KHÔNG PHẢI BẤT CỨ AI CŨNG ĐỦ NHẬN THỨC ÊỂ KHÔNG BỊ KÍCH THÍCH LÔI CUỐN VÀO NHỮNG CHUYỆN ''GIAI THOẠI '' KIỂU ''TIỂU NÔNG '' NÀY , BGƯỜI VIỆT RẤT DỄ TIN VÀO NHỮNG AI CÓ HỌC VỊ CAO-VỊ TRÍ CAO TRONG XH. NGƯỜI VIỆT RẤT THÍCH NGHE NHỮNG CHUYỆN CÓ VẺ ''THÂM CUNG BÍ SỬ'' VỚI MỘT TÂM LÝ ''NỔI LOẠN NÔNG DÂN'' TIỀM ẨN DO ĐẶC THÙ LỊCH SỬ DÂN TỘC ĐỂ LẠI! VÀ, XIN GÓP Ý CÙNG NHÀ THƠ CHỦ BÚT-NGƯỜI MÀ TÔI VỐN RẤT KÍNH TRỌNG-KHÔNG NÊN VÔ TÌNH LAN TRUYỀN NHỮNG LOẠI TIN ĐỒN ÁC Ý THÂM HIỂM KIỂU NÀY ! CÁI ĐÓ KHÔNG PHÙ HỢP VỚI TƯ CÁCH CỦA MỘT NHÀ VĂN HÓA ĐÁNG KÍNH NHƯ ANH
16/06/2010, 19:54Cái anh Lubim này thực là vô học khi coi sự thật là lưu manh. Nếu anh là một người có học, chắc anh không dám phỉ báng sự thật như thế.
Những ngộ nhận và tinh thần mục hạ vô nhân của Lubim thật đáng phê phán.
24/09/2010, 11:14ÔI!~ "NGƯU TẦM NGƯU-MÃ TẦM MÃ" CÁC CỤ DẠY CHẲNG SAI !
LŨ NGƯỜI VÔ SỶ PHỈ BÁNG CHA ÔNG. PHỈ BÁNG ANH HÙNG DÂN TỘC HỒ CHÍ MINH MÀ KHÔNG LO MỘT NGÀY BỊ ĐỐI MẶT VỚI VONG LINH TỔ TÔNG Ư? HOÀNG VĂN TINH THẬT LÀ LOÀI GIÒI BỌ PHẢN QUỐC!
15/10/2010, 04:37cai anh bim nay chac quen duoc lot dit tre em va nhuoi gia,benh tat nen ninh dang va Minh rau thoi qua.LUBIM LA CAI BIM LOT DIT.
20/05/2011, 17:30Hom nay toi moi co dip doc bai viet nay ve cu Ho Chi Minh. Mac du khong ro do chinh xac cua cau chuyen den dau, nhung cung cam on anh Tao da cung cap them 1 nguon thong tin tham khao cho cong dong.
Toi rat tan dong voi y kien cua ban haixuan va gaodua o tren. Cau chuyen co that hay khong, cung chi la tieu su gia dinh cua cu Ho da qua co. Thu nhat, vi cu Ho da qua co nen ta khong nen boc tach, boi moc mot cach tieu cuc ve doi tu cua cu. Thu hai, tieu su gia dinh khong co moi lien he logic nao toi thanh cong cua mot con nguoi. Anh khong the noi vi nguoi nay co ly lich gia dinh khong ro rang, nen nhat dinh nguoi ta khong phai la nguoi tot, thanh qua cua nguoi ta khong dang duoc ghi nhan. Xin loi, co rat nhieu nguoi nhu the tro thanh nguoi xuat chung. Thanh qua ho dong gop cho cong dong la dieu quan trong nhat, nhung cai khac chi la chuyen vun vat.
23/05/2011, 02:37Thanks! It is very funny. You help me improve my mood.
13/06/2011, 12:44Tôi là 1 người lính trẻ, sinh ra và lớn lên trong thời bình.1 người được đào tạo để trở thành SQ trong QD.nhưng gì tôi được học, được tìm hiểu...đã chứng minh 1 điều rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người kiệt xuất của thời đại....sự cống hiến của Người đã để lại cho chúng ta nền hòa bình, độc lập dân tộc. Tôi nghĩ rằng tự do ngôn luận là tốt, người ta có thể nói nhưng gì mình nghĩ hoặc biết cho mọi người nghe. Nhưng đó không phải là tất cả để chúng ta đánh giá bình phẩm . Chúng ta nghe để biết chứ không nên bàn luận hoặc tranh cãi về 1 con người đã làm nên lịch sử .như vẫy là chúng ta đã duy ý chí. Tôi thấy các chú, các anh nói thế này thế khác. người này đả kích người kia, làm vẫy chẳng hay ho gì...được tìm hiểu về Bác bao nhiêu thì càng làm cho chúng ta kính trọng và biết ơn Bác nhiêu hơn. Tôi rất kính trọng những câu nói mang tính chất tiến bộ, phát triển...hãy soi mình vào đạo đức và sự nghiệp của Người để thấy được mình đã làm được gì. Vĩ nhân vẫn mãi là vĩ nhân " Chủ tich Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta"!
28/06/2011, 01:55Cụ Đường sống trước cụ Tạo mấy năm nhỉ!?
Đặt giả sử câu chuyện cụ Tạo nói là có thật, vậy thì cảm nhận của cụ Tạo khác với cụ Đường chỗ nào? 1 cụ sống tân thời, 1 cụ sống "cựu thời" . Cụ Đường đã nhận thấy sự thông minh hiếu học, 1 con người rất tốt ở cụ Sắc để mang đến thật nhiều hy sinh và tình yêu thương bao đồng khi cụ Sắc còn là cậu bé.
Với cá nhân tôi kg rành về câu chuyện trên đây, nhưng tôi vẫn thầm nghĩ rằng cụ Sắc và cụ Hồ đã được tiếp thêm hàng vạn ngàn sức mạnh và tình yêu thương, ý chí và tinh thần cống hiến cho nhân loại từ những người tiền bối giàu đức hy sinh như cụ Đường và biết bao người khác.
Có rất nhiều người anh hùng đi ra từ làng mạc núi đồi, từ trong nghèo khó nên có giàu lòng thương cảm, bao dung, trắc ẩn.
Tôi chỉ cần nhìn bức tranh cụ Hồ vẽ, được in trên báo Người Cùng Khổ, về người phu kéo xe đã thấy hết tinh thần nhân đạo và tình yêu thương của Người.
Khi đất nước bị đè đầu cưỡi cổ, nước mất nhà tan,cụ Hồ và rất rất nhiều người đã chấp nhận thật nhiều hy sinh và nguy hiểm để dành lại Độc lập và sự tự hào dân tộc. Khi còn là 1 thanh niên chưa có nhiều toan tính chính trị, cụ Hồ đã dấn thân.
Tôi nghĩ rằng cụ Hồ rất giàu tình yêu thương, nhân đạo, có thật nhiều đức tính quí báu và cao cả.
người đọc sẽ rất thông minh để nhận biết được ý chí của người viết và tính khách quan của sự việc và con người.
Trước đây có đọc 1 đôi bài thơ của cụ Tạo, thấy cũng rất có tâm hồn đấy nhỉ. nếu cụ chuyên viết thơ có thể hay hơn.
Có 1 vài ý đóng góp. mong là có chút ý nghĩa với ai đó.
04/07/2011, 23:05tôi là người dân nam đàn.thực sự sốc khi đọc bài báo này. người ta nói chanh chua thì khế cũng chua nhỉ. đời có ai là hơn ai đâu.có chăng cũng chỉ là trong tiềm thức mỗi người. tôi luôn tự hào về quê mình vì cái chất không thể lẫn vào dâu của người dân quê mình cũng vì mảnh đất địa linh nhân kiệt và mảnh đất của hồ chủ tịch(bác của chúng ta đó).thế mà giờ ai lại lôi cái trò mả xưa nay văn hóa người Việt rất khó chấp nhận nhỉ. người viết ra bài này đã thử hỏi mình xem cái tin gọi là"rất rất ít người biết" này có làm người ta ít khâm phục bác hơn không?hay để
rồi lại được cảnh"gậy ông đập lưng ông" nhỉ.viết lách, ngôn luận là tự do nhưng tự do thái quá thì hậu quả không giống như lời nói gió bay đâu bác Ạ.KÍNH BÁC LÀ NHƯ VẬY
06/07/2011, 13:58 " Một nửa sự thật sẽ không phải là sự thật "
01/08/2011, 13:37 Bài của Bác Tạo cũng góp phần làm rõ thêm những chiêm nghiệm của tôi về các vĩ nhân thường có gốc từ những người cha, người ông tài hoa và được nuôi dưỡng bởi người mẹ nhân hậu, đặc biệt là thường được ông ngoại có học dậy dỗ thương yêu từ tấm bé, như cụ Khổng Khâu bên TQ, cụ Nguyễn Trãi cháu ngoại quan tư đồ Trần Nguyên Đán....
Cám ơn Ông Nguyễn Trọng Tạo đã giúp tôi củng cố thêm các thông tin mà tôi cũng đã được đọc, nghe trong thời gian gần đây. HCM là vĩ nhân chính trị, nhưng Việt Nam ta cũng cần thêm nhiều những vĩ nhân trong nhiều lĩnh vực khác ( kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, y học, di truyền, sinh học, nông học...) để đất nước giầu mạnh, nhân dân lo ấm, an bình. Về Chính trị thì thành ngữ Mỹ có câu " Chính trị đồng nghĩa với thủ đoạn", hoặc " trong các nghề có hai nghề càng làm bán chuyên nghiệp càng tốt đó là nghề làm đĩ và nghề làm chính trị", hoặc Á châu có câu " nhất tướng thành danh vạn cốt khô". Thế mới nói cái gì cũng có hai mặt của nó ( ví như tấm huân chương cũng có hai mặt vậy), kể cả Vĩ Nhân, nên các bạn yêu HCM chớ có quá lời với Bác Tạo, sau về già ngẫm lại thấy hối.
03/08/2011, 11:23Tư Do xin lỗi sai chính tả:vì Tư Do đã viết " no ấm" thành " lo ấm". Mong bạn đọc thứ lỗi.( Tư Do viết)
19/02/2012, 16:50Nó là tốt cho tôi để tìm thấy bài viết ở đây, điều này sẽ giúp tôi rất nhiều về việc học tập văn hóa của bạn,
chocolate gift baskets
12/06/2012, 09:18Câu chuyện này tôi đã nghe người bạn họ Hồ của tôi nói từ lâu (năm 1997) và rất tự hào là gia phả họ Hồ có tên Hồ Chí Minh trong đó. Chúng ta nên tôn trọng sự thật và trả lại cho dòng họ Hồ người con của họ. Tôi muốn kể trải nghiệm của mình về những người bạn Triều Tiên:
Tôi có học cùng với vài anh bạn Triều Tiên khi học tiếng năm 1984-4985 ở trung tâm học tiếng trước khi học Đại Học. Họ ra đường ăn mặc chỉnh tề, comple giầy bóng và luôn đeo khuy hiệu Kim Nhật Thành to đúng như cái đít bát, rất hãnh diện. Họ luôn tự hào: Kim Nhật Thành là con người vĩ đại nhất thế giới, là cha già dân tộc, v.v. Luôn tự hào Triều Tiên là thiên đường của trẻ em, họ là những người giỏi nhất, thông minh nhất,v.v. Chúng tôi lúc đó thật sự bực tức vì thật ra Hồ Chí Minh mới là vĩ đại nhất, chúng tôi mới thật sự là những người con một dân tộc anh hùng, con rồng cháu tiên,v.v. nên luôn phải đấu khẩu với họ, tranh giành nhau những cái danh đó. Còn các bạn các nước khác họ thấy chúng tôi thật sự lạ, họ không biết Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh là ai nên chúng tôi càng bực! Lịch sử dốt đến thế là cùng! Họ lại hỏi chúng tôi vài nhân vật, chúng tôi lại mù tịt! Năm 1989 toàn bộ lưu học sinh, nghiên cứu sinh, lao động Triều Tiên về nước trong vòng 3 ngày! Gặp lại 3 bạn Triều Tiên ngày xưa, họ chưa học xong trương trình Đại Học, họ buồn, rớm nước mắt, họ nói: nếu tôi không về gia đình tôi không được yên. Lúc này họ không còn luôn diện những bộ com lê, giày bóng, huy hiệu nữa, họ nhìn thế giới rộng lớn hơn. Tôi nghĩ: mỗi con người có một vai trò lịch sử nhất định, không cần quá tự hào thần thánh lên làm gì. Chúng ta nên tự hào chúng ta là người như thế nào. Một số người sai lầm khi họ tự hào họ là ai!