HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

Sunday, June 17, 2012

CVI *NHIỀU TÁC GIẢ * TỐ CÁO

 


Chân Dung Bác Hồ
của Kiều Phong
tặng Lôi Tam và anh em Nhân Văn

Phần 1
 
   Sau 10 năm qui ẩn, xuống núi phen này, Kiều Phong quyết định viết chuyện tình: mối tình lớn nhất của bác Hồ. Bác Hồ đã say mê... chính mình, mê như điếu đổ.

Như một anh si tình khờ khạo, bác Hồ làm nhiều trò quái đản để biểu lộ tình yêu. Chúng ta đều biết, muốn tìm một đội ngũ văn nô mạnh, phải tìm ở các nước Cộng sản, muốn thấy một lực lượng nâng bi khỏe nhất, có nghiệp vụ cao nhất thế giới, phải hướng về Hà Nội, thủ đô của đỉnh cao điếu đóm. Quanh bác Hồ, các chuyên viên thổi ống đu đủ đông như kiến, tên nào cũng có những ngón nghề ác liệt, thế mà bác không hài lòng, không thỏa mãn, bác đích thân cắm cúi đi làm một công việc vô cùng độc đáo là ngồi viết sách tự ca tụng, tự bốc thơm.

Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, bác viết cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” (từ đây sẽ được ghi ngắn là "Những mẩu chuyện..."). Sau đó, bác chế thêm bút hiệu Th.Lan, cũng với mục đích cao cả là viết bài tự khen nức nở.

Trong cuốn sách này, Kiều Phong chỉ hỏi thăm sức khỏe bác Hồ và chú... Trần Dân Tiên. Các chú khác như Th.Lan tạm thời được bỏ qua, nhưng sẽ có ngày Kiều Phong gom chung lại dẫn ra kho đồ nghề, dụng cụ ở sau nhà, phát cho mỗi chú một cán búa. Anh nào cũng sẽ có phần cả, đừng sốt ruột.



Mặt Nạ Rớt Đều Đều

Bác Hồ là người ham học, ham viết. Cả hai đức tính ấy đều tốt, đều đáng khuyến khích. Chỉ kẹt chút đỉnh là bác có tật ưa táy máy. Khi đọc, vớ được câu văn lời hay ý đẹp, người bèn mắt la mày lét, nhìn trước ngó sau không thấy có ai canh chừng là ra tay chôm liền. Mấy đứa ăn cắp xe hơi mang "hàng" về còn chịu khó sơn phết, cạo sửa cho mất dấu tích. Bác Hồ của các đồng chí thì hành nghề chôm danh ngôn một cách lười biếng hơn nhiều. Văn chương, lời nói của người xưa, bác không chịu sửa đổi, cứ để nguyên nước sơn láng coóng trình làng, lái chạy khơi khơi. Thế nên người ta mới bắt quả tang những câu bác Hồ nói giống hệt câu nói của các danh nhân, hoặc lời sáng tác mới toanh nóng hổi của bác, xem lại thì đã cũ hàng thế kỷ, đã được cụ Khổng cho chào đời từ xưa rồi.

Các đồng chí cháu bác Hồ có anh cũng biết ngượng, bẽn lẽn giải thích một cách rất "lô-gích" xã hội chủ nghĩa rằng: "Đây chỉ là trường hợp chí lớn gặp nhau". Chí lớn của bác chúng tôi có hẹn với chí lớn của cụ Khổng. Chẳng may bác bị kẹt xe, đến chỗ hẹn hơi trễ. Người Việt nam mình vốn giờ cao su, trễ có ngàn năm nhằm nhò gì mà quí thầy di tản cứ cười đểu hoài. Nhưng đó là chuyện sẽ được nói ở cuốn sách khác, khi Kiều Phong có thì giờ nhìn lại toàn bộ tác phẩm lớn bé của bác Hồ. Đây chỉ sơ sơ vài đường để đọc giả làm quen với các thói hư tật xấu của bác vậy thôi.

Khi đọc sách thì hơi có tật xấu nhưng trong địa hạt sáng tác, công bằng mà nói, bác Hồ đưa ra được những sáng kiến độc đáo, mới lạ. Nếu không bị cái tật chôm chĩa nó hại, phải tự túc tự cường thì bác cũng dựng cờ, gióng trống dựng lên được một trường phái không giống ai: Trường phái văn chương mặc áo thụng tự vái mình.

Cuốn "Những mẩu chuyện ..." được in tới, in lui cho toàn dân học tập. Mới đây, Hà nội mới chính thức công bố Trần Dân Tiên, Th. Lan chính là bác Hồ. Thật ra, chả cần Hà Nội chính thức xác nhận, chỉ cần đọc vài trang, người di tản buồn biết ngay tên thực của tác giả.


Xin mời quí vị đọc trang đầu cuốn "Những mẩu chuyện ...":

“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình. Ngày 2-9-45, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp Hồ chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời của Hồ chủ tịch viết như thế này:

"Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến
Ký tên: Hồ Chí Minh".

Thư trả lời chóng, nội dung thư giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến cho tôi rất băn khoăn...” (trang 5).

Mới đọc đến đây, 19 hàng, chưa được một trang, ta đã có tới hai dịp biết Trần Dân Tiên chính là bác, đã có chứng cớ về sự giả dối lố bịch của bác, đã bắt quả tang bác đang len lén đeo mặt nạ ngồi hồ hởi viết văn bốc thơm chính mình. Chứng cớ thứ nhất: câu mở đầu cuốn sách đã có hai chữ dùng không chỉnh. “Nhiều nhà văn nhà báo Việt nam và ngoại quốc muốn viết... nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công”. Chữ "thành công" ở đây mơ hồ. Họ muốn viết nhưng chưa thực hiện được, chưa làm được hay đã viết về tiểu sử bác rồi, nhưng bốc bác chưa đủ thơm nên sách không thành công?

Đó là một lỗi nhỏ, không đáng kể, nhưng khi nó được viết, được in trong một nước đầy nhóc văn nô, thì nó tố cáo rằng tác giả ở cái vị thế mà cóc anh văn nô nào dám phê bình, sửa chữa. Văn nô chỉ có cái tội là dồn cả cuộc đời, chí hướng, sức lực vào sự nghiệp nâng bi nên người ngợm, văn chương lúc nào cũng dơ dáy, tồi tàn. Nhưng khả năng sử dụng chữ Việt, khả năng viết của họ đều thuộc loại khá cả, không mấy khi phạm những lỗi "chưa sạch nước cản". Giả thử Trần Dân Tiên đúng là một văn nô trẻ tuổi mà viết lách như thế thì các văn nô đàn anh sẽ ghè vỡ đầu ngay. Ðàn anh Tố Hữu sức mấy mà để cho một kẻ nâng bi tay mơ, dùng chữ còn chưa vững như Trần Dân Tiên gia nhập đội ngũ. Văn chương Trần Dân Tiên dù lạng quạng cũng không bị chê bởi vì nó là văn bác. Nhưng văn tài chưa hại bác ác liệt bằng trí tưởng tượng và trí nhớ của bác.

Chứng cớ thứ hai nằm trong một câu văn đã đột ngột làm rớt mặt nạ Trần Dân Tiên, phơi mặt bác ra ánh sáng với nguyên cả râu ria: “Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được gặp Hồ chủ tich. NGAY CHIỀU HÔM ẤY, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời ...” (trang 5).

Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả chuyện ấy. Kiều Phong ngờ rằng chú Tiên đã nhờ bưu điện Mỹ gửi thơ cho Chủ tịch thì mới nhanh khiếp thế. Nhưng hỏi lại giám đốc bưu điện San Diego, được trả lời: "Hệ thống bưu điện tối tân của Mỹ cũng chỉ có thể giao thư vào ngày hôm sau, nghĩa là qua một đêm mới tới tay người nhận". Bưu điện Mỹ năm 1988 đã không làm việc nhanh bằng bưu điện nhà nước xã hội chủ nghĩa vào ngày 3 tháng 9 năm 1945. Ngày đó, có chú Trần Dân Tiên gửi thư cho Hồ chủ tịch buổi sáng, buổi chiều nhận được thư trả lời!

Giả thử rằng bưu điện nhà nước ta ngày ấy đã thực hiện được phép lạ thì cái sự chú Tiên nhận được thư hồi âm, hẹn gặp cấp kỳ ngay buổi chiều cùng ngày cũng có nhiều chỗ tức cười. Coi bộ bác không có việc gì làm, đang ngồi vêu ra nên vừa nhận được thư của một khách mộ điệu là vồ lấy trả lời ngay, cho gặp mình ngay. Nếu có một số người hơi đông cũng muốn gặp bác, chú Trần Dân Tiên chắc phải chờ lâu, ít nhất lâu bằng một bệnh nhân trong phòng mạch bác sĩ, chứ đâu được bác chụp giựt vồ vập ác liệt cỡ đó. Cảnh bác Hồ vồ chú Tiên làm Kiều Phong liên tưởng tới cảnh chị em ta đang ế khứa lại thấy anh khách sộp Thúc Sinh tà tà đến nạp mạng.

Dù sao, những bí ẩn ấy cũng có lời giải thích ổn thỏa: lỗi chẳng phải ở chú Trần Dân Tiên viết nhảm, không phải vì bưu điện nhà nước ta năm 1945 làm phép lạ, mà vì bác gửi thư cho chính mình nên thư qua từ lại cứ nhanh như chớp. Chưa viết được một trang, bác đã đãng trí quên bẵng mất rằng mình đang giả làm Trần Dân Tiên để nâng bi chính mình. Cũng chưa quá một trang, chú Trần Dân Tiên đã bị bác xử tệ, bỏ quên thê thảm. Cái thư của bác, được chú in lại từng chữ, đóng ngoặc kép cẩn thận, lại chỉ vỏn vẹn có vài dòng: “Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký tên: Hồ chí Minh”. Người gửi thì cả chữ ký được ghi rõ còn kẻ nhận thì không được bác nhắc tới họ tên, dù chỉ là cái tên trần xì như "chú Tiên" chẳng hạn.



Bác Không Muốn

Trên đời có kẻ không chịu bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào có thể tự khen. Bác Hồ hơn đời nhiều, chưa có cơ hội bác vẫn tự khen được. Vừa xì ra một câu hẹn: “Ngày mai mời chú đến”, hoàn toàn tầm thường, không có gì ghê gớm, cao siêu, vậy mà bác đã bắt chú Tiên phải rối rít bốc thơm rằng: “Thư trả lời chóng, nội dung giản đơn...”. Mẹ kiếp, bốc kiểu đó thì trên thế giới, mỗi ngày có nhiều triệu người đáng được khen chỉ vì họ cũng viết ra những cái giấy hẹn. Giấy hẹn của anh cha căng chú kiết nào mà chẳng "nội dung giản đơn...". Không những thế, giấy hẹn của thiên hạ còn đầy đủ, lịch sự hơn vì có ghi tên người nhận đàng hoàng. Còn giấy hẹn của bác, xét kỹ lại thấy thiếu đầu thiếu đuôi, lỡ nó rớt vào tay chú Giáp, chú Đồng hay được gửi lộn vào nhà chú Trường Chinh thì các chú ấy cũng sẽ nhào tới trình diện bác đúng 7 giờ 30 sáng mai cùng với chú Tiên! Thư hẹn thiếu sót, vớ vẩn đến thế mà vừa viết xong bác đã buông bút, đeo mặt nạ Trần Dân Tiên vào rồi hả hê thò tay xuống tìm... bi.

Bác lại tỏ ra thiếu kiên nhẫn, thấy lời khen ngợi là phải vồ ngay. Bác có thể chiến đấu trường kỳ, lì lợm nướng hàng triệu người trong chiến tranh... không sốt ruột. Nhưng có cơ hội được khen thì nhất định bác chẳng chịu chờ. Xin đọc lại câu văn của bác: “Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng HOAN HÔ NHIỆT LIỆT, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập ...”. Người bình tĩnh, kiên nhẫn sẽ viết là: “... đứng trước quần chúng, Hồ chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập và được hoan hô nhiệt liệt”.

Chờ chút xíu thôi, nào có lâu la gì, đợi chủ tịch đọc xong người ta sẽ hoan hô nhiệt liệt cho nó đúng thứ tự thời gian và đỡ ồn ào, lộn xộn. Nhưng bác Hồ cứ thấy "quần chúng" là cầm lòng không đậu, gặp quần chúng là bác bắt họ hoan hô nhiệt liệt ngay tức khắc.

Những sơ sót ấy đã tố cáo một số bản tính của bác. Sơ sót hãy tạm coi là nhỏ và tật xấu chưa trầm trọng lắm. Nhưng cũng chỉ mới viết trang đầu bác đã để lộ cái tính xạo ke ra. Bác viết: “Chủ tịch Hồ chí Minh không muốn nhắc lại thân thế mình”.

Không muốn nhắc lại thân thế mà tự mình ngồi viết cả một cuốn sách bốc thơm mình, bịa đặt phét lác để nâng bi mình tối đa, "không muốn" kiểu này hơi lạ! Câu ấy, đáng lẽ phải được viết như thế này: "Chủ tịch Hồ chí Minh không muốn... đứa khác viết về thân thế của người. Chính người phải tự viết lấy, tự ca tụng, tự thổi ống đu đủ, tự nâng bi thì người mới cảm thấy đã đời"!



Bác Đẹp Trai

Nào chúng ta chịu khó đọc tiếp:

“Sáng 4-9, 7 giờ 25, tôi đến dinh Chủ tịch. Đúng 7 giờ 30, một người thanh niên đến phòng khách, lễ phép nói với tôi: "Hồ chủ tịch đợi anh ở phòng làm việc". Phòng làm việc của Chủ tịch là một gian phòng rất rộng, một bên có nhiều cửa sổ lớn. Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một tủ sách nhỏ kê sát vào tường, và hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía trên lò sưởi, có một lọ hoa. Đấy là tất cả những đồ trong phòng làm việc, không có một thứ trang trí gì khác. Hồ chủ tịch thường mặc bộ quần áo kaki, đi giầy vải đen.” (trang 6)

Chúng ta mới ở phần đầu trang thứ hai (trong sách là trang 6 vì 4 trang đầu dành cho nhan sách và những thủ tục lỉnh kỉnh), chưa đi xa đến một trang rưỡi, ta đã bắt gặp bác để rớt mặt nạ Trần Dân Tiên lần thứ ba.

Chú Tiên leo lẻo kể rằng lần đầu tiên chú thấy bác Hồ là ngày 2 tháng 9. Sáng 4 tháng 9 chú mới gặp bác lần thứ hai vậy mà chú đã biết “Hồ chủ tịch THƯỜNG MẶC ...”. Nếu bác cứ phịa đại Trần Dân Tiên là một thứ lính cận vệ, chuyên lo điếu đóm cho bác thì đỡ lộ tẩy. Đằng này bày đặt "thân thế" chú Tiên là người xa lạ, mới gặp... để rồi chú ấy phom phom kể bác thường mặc áo này, thường đi giầy kia, thông thạo cứ như... chính bác vậy. Đầu chưa kịp dấu cái đuôi đã thò ra ve vẩy loạn lên, trông không ra làm sao cả.

Bây giờ đến khoản bác tả dung nhan của chính mình. Bác viết: “Tóc người đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng ...”. Gớm! Bác thấy bác bảnh trai đến thế thì bác si mê bác là đúng quá rồi. Khúc sau, phải tả tới màu da, bác hơi kẹt vì da bác "ngăm ngăm đen...". Phịa là nó trắng trẻo hồng hào thì lộ liễu quá, sợ các cháu cười, bác đành phải nhận là mình đen. Nhưng lại e nhận như thế nó hơi xí giai đi, bác vội vã thêm: “Da ngăm ngăm đen khiến ta nghĩ đến sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian khổ của chiến tranh du kích...” (trang 6).

Nhờ bác Hồ tí! Sương gió dãi dầu thì đen nhưng "trong rừng sâu" thì lại chỉ xanh mướt hoặc vàng ra chứ đâu có đen. Cái khoản chiến tranh du kích lại càng xa sự đen đủi nữa vì đánh du kích là chuyện của những kẻ theo bác, còn chính bác quanh quẩn chiến đấu dầu dãi gió sương trong những cái hang kiểu như hang Pắc Bó vậy thôi.

Không ai trách bác chuyện ở ru rú trong hang để điều khiển cuộc chiến, nhưng ở chỗ an toàn như thế mà cũng đòi có màu da đen rám nắng của các chiến sĩ gió sương thì... tham lam quá. Cái phần "trán cao, mũi thẳng, mắt sáng ngời..." bác đã vồ hết, xí hết, lũ đàn em thực sự làm du kích có tí da ngăm ngăm đen phong trần để lấy le với đào, bác cũng chôm luôn. Đã tham lam, bác còn tỏ ra ích kỷ quá sức. Khi tự mô tả mình bảnh trai như thế, bác cóc thèm nghĩ đến những cộng sự viên đắc lực, những chú em đồng chí hơi xấu trai: thí dụ như chú Đồng vều. Trong khi bác "mũi thẳng, mắt sáng" thì chú ấy mũi vẹo, môi dầy cồm cộm. Bác càng khoe mình đẹp giai thì chú Đồng vều càng buồn duyên tủi phận dữ lắm. Con người đi làm cách mạng đâu có cần bề ngoài hoa lá cành như mấy anh đóng tuồng cải lương. Làm chi mà huênh hoang dữ thần vậy cho lũ đàn em nó thêm đau đớn phận nghèo!



Bác Khiêm Tốn Nhường Ấy

Sau khi để mặt nạ Trần Dân Tiên rơi lộp bộp mấy lần, bác chợt tỉnh lại và nhớ ra trò chơi phân thân của mình. Bác mô tả tiếp:

“Tôi bước vào phòng kính cẩn chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết, người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới nói: "Tôi có thể giúp chú việc gì nào?". Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong, người cười và đáp: "Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã!” (trang 6)

Mặt nạ Trần Dân Tiên lại rớt cái kịch.

Bởi vì trên đời này, nếu có một tên Trần Dân Tiên thật mà tên ấy mới gặp bác lần đầu đã khờ khạo ngu si đến độ đòi viết tiểu sử ca tụng người thì làm sao nó có thể sống sót ra khỏi dinh chủ tịch. Bọn văn nô chuyên nghiệp của bác sẽ bủa vây hàng hàng lớp lớp đón cậu Trần Dân Tiên ở cổng dinh mà bịch cho cậu một trận tơi bời hoa lá vì cậu cả gan tính tranh "gióp" của chúng nó. Sau bao tháng ngày gian khổ đi theo bác chiến đấu, chúng đã thành văn nô được biên chế, chúng đã được đảng cấp cho dụng cụ hành nghề là những cái ống đu đủ rất to. Ðứa nào cũng chấp chới mong ngóng có ngày được vinh dự kê ống của mình vào rốn bác mà thổi, nay có thằng tay mơ ở đâu nhào tới đòi dẹp những văn nô nhà nghề, văn nô có chức sắc, để dành cái rốn của bác thì đâu có thể để cho nó sống sót được.

Về việc thực hiện cuốn tiểu sử, bác bảo: "Đồng bào đang đói khổ, có nhiều việc cần kíp phải làm trước. Hãy gác cái ý viết tiểu sử bác lại, v.v...". Vừa phán như thế xong, bác lại nhặt cái mặt nạ Trần Dân Tiên dưới đất lên, đeo vào, nâng bi tiếp: “Một người như Hồ chủ tịch của chúng ta, với ĐỨC KHIÊM TỐN NHƯỜNG ẤY và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được”.

Nếu bác biết tôn trọng lời bác nói thì cuốn sách "Những mẩu chuyện ..." không bao giờ được viết. Bởi vì từ ngày 4-9-1945 cho tới lúc các cháu khiêng bác ra quảng trường Ba Ðình, có lúc nào hết cảnh "rất nhiều đồng bào đang đói khổ" hay có khi nào bác hết "những công việc cần kíp" đâu. Kiên cường rước cho được chủ nghĩa Cộng sản về chụp lên đầu dân tộc, hô hào một nửa nước đem súng ống đi tàn sát ép nửa kia vào cuộc đời đói rách... những công trình ấy đâu có lúc nào cho phép bác được rảnh rang. Đã bề bộn công việc lại còn có "đức khiêm tốn nhường ấy" nghĩa là rất thẹn khi phải tự đề cao mình... bác sẽ không chịu kể tiểu sử cho ai, nói chi đến việc tự viết ra.

May thay cho nền văn chương hài hước, tiếu lâm của dân tộc, bác đối xử với những lời nói của chính bác giống hệt như mấy cái hiệp định, hòa ước, lệnh ngưng bắn Tết Mậu Thân mà bác đã ký kết, hứa hẹn... nghĩa là vi phạm lia chia. Hiệp ước ký rồi bác vi phạm ngay lúc chưa ráo mực. Lời bác phán thì bị vi phạm ngay từ lúc đang... viết ra! Cái việc bác ngồi cầm bút viết những câu văn Trần Dân Tiên để tự ca tụng đã như một bàn tay vả bôm bốp vào cái mồm huênh hoang rằng bác có nhiều việc cần kíp, bác khiêm tốn, bác bận lo cho đồng bào đói khổ không có thì giờ khoe tiểu sử, v.v... Tự mình cầm bút khoe tiểu sử, bốc thơm chính mình rồi cùng lúc lại nức nở ca ngợi rằng mình là người quá khiêm tốn, quá bận lo cho dân đói không muốn bỏ thì giờ vào việc kể tiểu sử... cổ kim, đông tây khó kiếm được anh chàng nào ăn gian nói dối, lố bịch đến thế.

Mới đọc chưa hết ba trang sách của bác chúng ta đã thấy hiện ra rành rành trước mắt chân dung một con người thèm thuồng lời ca tụng, không chịu thỏa mãn với các kỹ thuật nâng bi tối tân của một đội ngũ văn nô nâng khỏe nhất thế giới, một con người dám làm cả những trò tiếu lâm, cà chớn nhất để thỏa mãn nỗi khát khao được xưng tụng, một người hoàn toàn vì mình mà quên... dân, vì trong khi dân chúng chết đói, chết vì chinh chiến thì bác ngồi rung đùi hả hê viết sách tự ca tụng mình tài, tự vẽ mình là mắt sáng, mũi thẳng, trán cao.

Với ba trang sách mà đã mô tả được ngần ấy chuyện, gửi đến độc giả ngần ấy đức tính cao cả của bác, phải công nhận là văn chương bác Hồ cũng phong phú lắm chớ bộ...

Trên mọi địa hạt, bác tỏ ra rất tự kiêu, tự mãn. Lời bác nói ra là chân lý, hành động của bác không bao giờ sai lầm, bác làm gì cũng thành công, v.v... Thế nhưng khi đọc tới trang 7 cuốn tiểu sử này chúng ta thấy có một công việc bác đã làm với tinh thần thiếu tự tin. Bác cảm thấy mình chưa đạt chỉ tiêu và bác băn khoăn, bào chữa dữ lắm. Cuối trang 7, bác viết: “Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của Hồ chủ tịch, những đoạn ấy phải chăng là rất quan trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng: ngoài Hồ chủ tịch, thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó.”

Bây giờ, ta đã biết Trần Dân Tiên chính là bác, câu văn trên cần được sửa lại cho đàng hoàng, đứng đắn như sau: "Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của tôi, những đoạn ấy phải chăng là rất quan trọng? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng: ngoài tôi ra thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó."

Câu văn lảm nhảm tức cười ấy đã thể hiện một thảm kịch do tật khoái được nâng bi gây ra. Đầu tiên, bác chê hết cả đội ngũ văn nô, chỉ tin ở tài tự ca ngợi. Nhưng mới viết vài trang, bác teo. Bác sợ mình sẽ không ca tụng mình tới mức. Bác phải thòng câu đó để nhắn nhe đồng bào, độc giả rằng: "Cuốn sách này ca tụng bác chưa đủ đâu nhé, bác Hồ còn nhiều cái hay ho tài ba, ly kỳ bí mật khác chưa được kể ra, người viết sách nâng bi Trần Dân Tiên nâng chưa tới đâu. Bi bác còn đáng... cao hơn nhiều, v.v... ".

Ngàn năm một thuở mới có dịp thấy bác nhũn nhặn nhận là mình có chỗ còn yếu kém, làm chưa đạt chỉ tiêu. Đồng bào đổ xô lại xem chỗ yếu kém hiếm hoi đó là cái gì thì hóa ra bác khiêm tốn thú nhận rằng: tôi không đủ tài để ca tụng tôi, tôi là con người vĩ đại vượt ra khỏi tầm nâng bi, ca ngợi của chính tôi!

Từ thuở vua Hùng dựng nước, trải qua lịch sử hàng ngàn năm, chúng ta chưa từng gặp một con người "Khiêm Tốn Nhường Ấy"!
 

 

HẾT ĐƯỜNG CHỐI CÃI

Lê Văn Ấn
 

Mấy tuần nay ở quốc nội, văn kiện bán nước của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng chấp nhận một phần lớn lãnh hải Việt Nam thuộc về Trung Cộng, đã được "hé" ra cho toàn dân Việt Nam biết. Chính tòa Đại Sứ Trung Cộng ở Hà Nội cho biết sẽ họp báo phổ biến văn kiện bán nước nhân dịp tròn 50 năm chúng nhận được quà này từ Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh lúc đó là Chủ tịch Nước kiêm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, Phạm Văn Đồng lúc đó là Thủ Tướng Việt Cộng tức là 2 tên chóp bu của đảng Cộng Sản. Sự kiện văn bản bán nước của Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đã cho toàn dân thấy đảng Cộng Sản chỉ làm hại đất nước, những tuyên truyền xách động đồng bào "yêu nước" của đảng Cộng Sản chỉ là một trò bịp. Cộng Sản Việt Nam ngày nay có muốn "khai trừ" 2 tên phản Đảng, phản dân tộc Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng như chúng thường làm cũng không được, không còn kịp. Hồ Chí Minh lâu nay được Việt Cộng thần thánh hóa, nào là cha già dân tộc, nào là có công đánh thắng 3 đế quốc, nào là nhà ái quốc, nào là nhà văn hóa thế giới nào là được ngồi chung bàn thờ với Phật do bọn sư quốc doanh "ái mộ", v.v… nay tan thành mây khói.
Đảng Cộng Sản Việt Nam đang phải đứng trước một sự lựa chọn hết sức khó khăn, nếu không nói là nan giải: nếu tiếp tục bắt dân chúng tôn thờ Hồ Chí Minh, tiếp tục "kể công ơn của Bác" thì hóa ra Việt Cộng đang tôn thờ một tên phản quốc? Nếu Việt Cộng tôn thờ tên phản quốc thì dân chúng Việt Nam sẽ có kết luận đây là đảng phản quốc, làm tay sai cho ngoai bang. Nếu vứt bỏ những gì liên quan đến Hồ Chí Minh như họ thường làm đối với những kẻ mà họ cho là "phản đảng, hại dân tộc" thì đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ sup đổ cùng với thần tượng bịp bợm Hồ Chí Minh. Đây là bằng chứng do Trung Cộng đưa ra tại Hà Nội, làm sao mà chối cãi được? Hằng ngày,Việt Cộng bắt dân chúng đến "thăm lăng Bác", bây giờ Bác đã lộ nguyên hình là một tên phản bội dân tộc, không lẽ vẫn cứ tiếp tục bắt dân chúng  "thăm lăng tên phản động"? Một sư đoàn ngày đêm túc trực, canh gác lăng tên phản động tốn biết bao nhiêu tiền của của dân, bây giờ vẫn tiếp tục như vậy coi sao được? Những người lính có nhiệm vụ "đánh đuổi thực dân, bảo vệ giang sơn, tổ quốc", nay phục vụ một tên phản động, bán nước, họ cũng phải hổ thẹn với lương tâm, với anh em đồng đội, nhất là những người đã hy sinh ngoài chiến trường! Câu "ngạn ngữ" Nói láo như VẸM tưởng chỉ là câu tuyên truyền, nay đã trở thành sự thực.
Cả 2 cuộc chiến, 1945-1954 và 1960-1975, khi thì Hồ Chí Minh kêu gọi thanh niên tham gia kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, bảo vệ giang sơn tổ quốc. Khi thì Hồ Chí Minh kêu gọi "đánh Mỹ cứu nước" làm cho bao thanh niên phải hy sinh một cách oan uổng. Nay bộ mặt Việt gian bán nước của Hồ Chí Minh đã bị Trung Cộng đem ra biêu riếu, không có bằng chứng nào xác thực hơn. Cũng không thể cho rằng vì nhu cầu "đánh Mỹ cứu nước" mà "Bác" phải đem lãnh hải dâng cho Trung Cộng. Vì nói như vậy thì hoặc là "Bác" điên hay toàn dân Việt Nam điên.
Tin tức mới ghi nhận được cho biết sinh vien học sinh và các tầng lớp dân chúng khác đã có nhiều phản ứng chống Trung Cộng, từ việc rải truyền đơn, treo biểu ngữ đến việc dự định biểu tình vào ngày 14.9.2008 để phản đối Trung Cộng lấn chiếm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ðể trả đũa, Trung Cộng sẽ cho công bố văn kiện CSVN đã bán nước, bán lãnh hải Việt Nam cho Trung Cộng vào ngày 14.9.1958. Phản ứng của đồng bào quốc nội cũng đưa Ðảng và Nhà Nước bạo quyền Cộng Sản trước một sự kiện khó xử, còn miệng ăn mà hết miệng nói, dù cho những cái miệng này nói láo như máy, nhưng nay thì mở miệng mắc quai.
Tin tức ngày 10.9.2008 từ trong nước cho hay đã có 25 nhà đấu tranh cho dân chủ ở trong nước yêu cầu Cộng Sản phủ nhận văn kiện bán nước do Phạm Văn Ðồng ký gởi Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng ngày 14.9.1958. Chưa biết Việt Cộng sẽ đối phó với lời yêu cầu này ra sao, nhưng sự kiện này ít ra cũng có một cái lợi là các nhà dân chủ này đã - một cách khéo léo - phổ biến hành động phản quốc của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản để cho mọi người cùng biết.
Có nhiều người "mách nước" cho Việt Cộng rằng hãy qua lạy lục Trung Cộng để chúng công bố "không có văn kiện bán nước đó", nhưng chắc chắn là Trung Cộng không chấp nhận. Và nếu làm như vậy, chẳng khác gì Việt Cộng "chuộc" lại văn kiện bán nước, và dĩ nhiên phải có tiền "chuộc". Và một lần nữa, chắc Việt Cộng lại phải bán thêm lãnh thổ và lãnh hải cho Trung Cộng.
Thực ra, dưới ánh mặt trời không có gì dấu được lâu. Người Việt hải ngoại đã biết những chuyện "thâm cung bí sử" của Hồ Chí Minh một cách tường tận, từ việc xin học trường  thuộc địa của Pháp để khi ra trường làm tôi mọi cho Tây thực dân  không được chấp nhận, đến việc cưới Tăng Tuyết Minh, đến việc ăn cắp cuốn thơ Ngục Trung Nhựt Ký của một người Tàu họ Lý. Việc "Bác" đã thương cháu gái Nguyễn Thị Ngát ở trong hang Pak Pok cho đến lúc cháu có thai đẻ ra Nông Đức Mạnh, đến việc ăn  ở với Nguyễn Thị Xuân, một cô gái hơ hớ tuổi Xuân, đáng con cháu "Bác" đã có con rồi giết cô Xuân một cách tàn nhẫn, đến chuyện lấy ngày 19 tháng 5 làm ngày "Sinh Nhật Bác" chứ thật ra là để có cớ buộc dân chúng Hà Nội treo cờ để đón đại tướng của thực dân Pháp v.v… Người dân trong nước bị bưng bít nên đa số không biết, hoặc những người biết mà không dám nói. Nhưng nay thì:
"Màu hồ đã mất đi rồi,
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma"
(Kiều)
Vốn liếng của Hồ Chí Minh là một cuộc đời bịp bợm, nay cái sự bịp đã bày ra trước mắt mọi người, không còn chối cãi được. Câu châm ngôn "sống, học tập và làm việc theo gương Bác Hồ" bây giờ làm sao cải sửa? Không lẽ bắt thanh niên sinh viên phải "sống phản động, làm việc tôi mọi cho Nga Tàu theo gương Bác Hồ bán nước?".
Trước đây, hầu hết người dân miền Nam đều được nhiều tin tức về đời tư cũng như đời công của Hồ Chí Minh, tuy vậy, một số đồng bào còn nghi kỵ, ngờ vực miền Nam tuyên truyền. Sau năm 1975 chạy ra hải ngoại, người Việt có đầy đủ tài liệu về hành động bán nước, dâm ô, nói láo, gian ác… của Hồ Chí Minh. Bây giờ Trung Cộng đã phơi bày sự thật, không còn cách chối cãi.
Khi không còn cách nào chối cãi thì nên thú thật với quốc dân đồng bào những sai lầm từ căn bản của Đảng là điều phải làm. Không gì hay cho bằng can đảm nói lên sự thật, có như vậy mới mong được dân thương hại, vì không thể lấy thúng úp miệng voi, nhất là chuyện cả nước đã biết. Sau đó, gấp rút trả lại quyền tự quyết cho dân tộc để Việt Nam sớm có một nền dân chủ chân chính. Có như vậy Việt Nam mới có cơ hội lấy lại tất cả những gì mà đảng Cộng Sản đã dâng cho Trung Cộng.
Ðã hơn một lần, Việt Cộng chịu nhục nhã vứt bỏ kinh tế Cộng Sản để theo kinh tế thị trường, nay đứng trước kẻ thù độc ác, thâm hiểm như Trung Cộng, chúng vạch tội ác bán nước của Hồ Chí Minh và "đảng ta", chắc chắn Việt Cộng phải có đủ sáng suốt, bình tĩnh để có quyết định dứt khoát, tạo nên một khúc quanh lịch sử, đưa nước nhà đến chỗ vững mạnh để đối phó với những hiểm họa do kẻ thù truyền kiếp của dân tộc tạo nên. Tướng lãnh, sĩ quan cũng như binh sĩ trong quân đội đã thấy sự gian xảo, sự nguy hiểm của Ðất nước, hãy mạnh dạn đứng lên làm lịch sử. Ðừng để xương máu của bao nhiêu triệu đồng bào 2 miền Nam Bắc ra vô ích.

Lê Văn Ấn
11/09/2008
(Nguồn: Thăng Tiến Việt Nam
http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=1874&Itemid=274)
*
HẾT ÐƯỜNG CHỐI CÃI Viết tặng Lê Văn Ấn
tác giả bài "Hết đường chối cải"

MG


Hết đường chối cãi rồi nhe
Từ đây chấm dứt lè nhè "bác - con"
Dù cho sông cạn núi mòn
Hồ-Ðồng bán nước vẫn còn trơ trơ
Gây nên máu chảy đôi bờ ?
Ðánh Tây chống Mỹ đâu ngờ Việt gian
Cả bè cỏng giặc Tàu sang
Dâng đất bán đảo trăm ngàn hận đau
Chỉ lo hãm hại đồng bào
Giết người cướp của để mau làm giàu
Nay lại im hết được sao ?
Mười bốn tháng chín vết dao đoạn lìa
Ðem thân của Mẹ cắt chia
Hoàng-Trường hai đảo bên rìa biển Ðông
Giang sơn gấm vóc Lạc Hồng
Máu xương của Việt chất chồng tạo nên
Bây giờ là lúc đứng lên
Toàn dân cả nước đáp đền núi sông
Xóa tan vết nhục Hồ-Ðồng (1)
Dựng lại huyền thoại con rồng cháu tiên
(1) Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng ký công hàm bán nước cho Tàu đỏ ngày 14-9-1958.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 9-2008
Mường Giang
(Nguồn: http://www.vietland.net/)
 http://xoathantuong.tripod.com/lva_hetduong.htm

 

 

 

Từ Đông Du đến mặt thật của Hồ Chí Minh

Nguyễn Văn Trần
 

Từ những năm 20
Trong thập niên 20 của thế kỷ trước, Quảng Châu là trung tâm cách mạng Trung Quốc do Trung Quốc Quốc Dân Đảng lãnh đạo, một mặt đánh dẹp phong kiến để thống nhất Trung Quốc, mặt khác, chống sự xâm lược của đế quốc để khôi phục nền độc lập dân tộc. Trong cuộc cách mạng nầy, Trung Quốc Quốc Dân Đảng chủ trương bắt tay với Nga-Xô và Cộng sản Tàu.
Quảng Châu trong những năm từ 1924 đến 1927, không chỉ là trung tâm của cách mạng của Trung Quốc mà còn là thánh địa của những nước thuộc địa Á châu muốn vùng lên đòi độc lập dân tộc. Trường võ bị Hoàng Phố, dưới sự chỉ huy của Tưởng Trung Chánh, vừa dạy võ bị, vừa dạy văn hóa, khoa học, đã thu hút đông đảo thanh niên các nước Đông Nam Á trong đó thanh niên Việt Nam chiếm một số khá lớn. Về sau những người nầy trở thành những nhà lãnh đạo các đảng phái cách mạng Việt Nam không theo cộng sản (hiện ở Hoa Kỳ còn vài người tuổi trên 90).
Cuộc cách mạng ở Trung Quốc phát triển ảnh hưởng mạnh đến cách mạng Việt Nam. Chí sĩ Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền Đông Dương Merlin đã làm nức lòng những người Việt Nam yêu nước và làm rạng rỡ ngọn cờ cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Đảng do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo. Hành động can trường của chí sĩ Phạm Hồng Thái ở Sa Diện hoàn toàn không quan hệ gì với Hồ Chí Minh vì lúc bấy giờ, 19 tháng 6 năm 1924, Hồ Chí Minh hãy còn ở Mạc-Tư -Khoa. Cuối năm 1924, Hồ Chí Minh mới tới Quảng Châu và ở lại tại đó đến năm 1927.
Thi hài của nhà chí sĩ được dân chúng Quảng Châu vớt lên đem chôn cất tại Nhị Vọng Cương, đầu quay về hướng Tây-Nam là hướng tổ quốc Việt Nam. Từ đó, thanh niên Việt Nam ùn ùn kéo sang Quảng Châu viếng mộ liệt sĩ. Và cũng từ đó, trường Hoàng Phố mở cửa rộng rãi đón nhận thêm nhiều thanh niên Việt Nam vào học.
Hồ Chí Minh, khi đến Quảng Châu, nghe chuyện Chí sĩ Phạm Hồng Thái ám sát Toàn quyền Merlin, bèn tìm cách liên lạc với tổ chức bí mật của Phạm Hồng Thái là "Tam Tam Xã" và qua năm sau (1925) đề nghị đổi tên thành Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, tức là tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay.

Tập Huyết Thư
Người Nghệ An, cùng quê với Hồ Chí Minh, năm 1900, cụ Phan Bội Châu đỗ thủ khoa kỳ thi Hương. Thay vì đi làm quan, cụ Phan liền lợi dụng uy tín vừa thi đậu thủ khoa đứng lên vận động cho nền độc lập dân tộc. Năm 1903, cụ viết tập Huyết Thư bí mật phổ biến trong nước kêu gọi thành lập những tổ chức chống lại thực dân Pháp.
Năm sau cụ Phan gặp nhà ái quốc Tăng Bạt Hổ, thảo luận về đường lối cách mạng Việt Nam và đi đến quyết định tổ chức một căn cứ bí mật để tuyển mộ và giúp đỡ thanh niên Việt Nam gởi sang Nhật du học. Phong trào Đông Du bắt đầu. Và trong ba năm, Phong trào Đông Du đã có khoảng 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật học.
Mùa Xuân năm 1905, cụ Phan cùng với Tăng Bạt Hổ sang Nhật. Cụ cũng vừa hoàn thành quyển sách thứ hai là "Việt Nam Vong quốc Sử". Tại Nhật, cụ có dịp hội kiến với nhà cách mạng Trung Quốc Quốc Dân Đảng là Tôn Trung Sơn nhưng vẫn chưa có cam kết cho một thỏa hiệp nào. Cụ cũng có những cuộc tiếp xúc rộng rãi với chánh giới và nhân sĩ Nhật. Cụ đặt hy vọng lớn ở sự giúp đỡ của Nhật cho Cách mạng Việt Nam.
Nhưng đến tháng 4 năm 1906, cụ cùng với Hoàng thân Cường Để và cụ Phan Chu Trinh qua Nhật thì mới thất vọng vì Nhật không muốn thật tình ủng hộ cách mạng Việt Nam.
Cụ Phan Chu Trinh trở về Việt Nam và bắt đầu vận động Phong trào Duy Tân. Ở lại Nhật, qua năm sau, cụ thấy thất vọng thêm khi Nhật ký kết với Pháp và chấp nhận đòi hỏi của Pháp là ngăn cấm những hoạt động cách mạng của sinh viên Việt Nam tại Nhựt và trục xuất họ về Việt Nam.
Nhóm thanh niên nầy, kẻ đi Trung Quốc, người đi Xiêm La (Thái Lan). Cụ Phan đi Xiêm La. Cụ Cường Để đi Hương Cảng (Hongkong).
Khi cách mạng Trung Quốc thành công, cụ Phan và Cụ Cường Để đến Quảng Châu để khôi phục công cuộc vận động cách mạng Việt Nam. Năm 1912, cụ Phan thành lập Việt Nam Quang Phục Hội theo đuổi mục đích là xây dựng cho Việt Nam sau khi giành được độc lập một thể chế Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1913, Viên Thế Khải đánh phá cách mạng Tân Hợi. Long Tế Quang chiếm được Quảng Châu, bắt cụ Phan Bội Châu và các đồng chí của cụ, chuẩn bị giao cho Pháp để đổi lấy món tiền lớn. Nhưng Viên Thế Khải bị cách mạng Trung Quốc phản công và thất bại. Tôn Trung Sơn trở lại Quảng Châu và nhờ vậy cụ Phan cùng các đồng chí khác của mình được thả ra. Cụ tiếp tục vận động cách mạng dân tộc Việt Nam. Đến đầu năm 1924, cụ cải tổ Việt nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng, đặt tổng chi bộ tại Quảng Châu, với thành phần nồng cốt là Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Thượng Thuật, Đặng Sư Mạc …

Hồ Chí Minh và Phan Bội Châu
Thân phụ của Hồ Chí Minh, cụ Nguyễn Sinh Sắc, có quen biết qua lại với cụ Phan Bội Châu, nên Hồ Chí Minh được cụ Phan rất quí mến. Do đó, cụ Phan đã có lần khuyên Hồ Chí Minh gia nhập tổ chức của cụ nhưng Hồ Chí Minh từ chối. Nay Hồ Chí Minh đến Quảng Châu, vì thấy chưa thuận tiện ra mặt công khai hoạt động cộng sản nên núp dưới chiêu bài vận động cách mạng việt nam theo đường lối "độc lập dân tộc", được cụ Phan để ý. Và Hồ Chí Minh từ đây cũng thường tìm cơ hội lui tới với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan cũng đem đường lối và tôn chỉ của Việt Nam Quốc Dân Đảng nói cho Hồ Chí Minh nghe. Nhưng Hồ Chí Minh đã chọn con đường Quốc tế Đệ III nên không hưởng ứng theo Cụ Phan Bội Châu mà chỉ "vâng dạ" cho vừa lòng Cụ Phan mà thôi.
Bỗng một hôm, bất hạnh lớn xảy tới cho cụ Phan: ngày 25 tháng 6 năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị cảnh sát Pháp bắt ở Thượng Hải, ngay tại tô giới Pháp. Xin nhắc lại, cũng trong lúc nầy, Hồ Chí Minh tuyên bố tổ chức bí mật của chí sĩ Phạm Hồng Thái là "Tam Tam Xã" trở thành Việt nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội để tiếp tục khai thác cho phong trào cộng sản đang có ảnh hưởng từ sự hy sanh can trường của chí sĩ Phạm Hồng Thái, tác động mạnh lên lòng yêu nước của giới thanh niên Việt Nam.
Theo học giả Hoàng Văn Chí thì cụ Phan Bội Châu bị Pháp bắt do Hồ Chí Minh đã bán cụ cho Pháp để lấy một số tiền là một 150.000 đồng (tiền Đông Dương bấy giờ). Tin tức nầy trước tiên do các đệ tử và đồng chí của cụ Phan thu lượm được, sau đó thì trong phong trào cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc, ai ai cũng biết. (Vài cụ ngày nay con sống ở Hoa Kỳ, đã tham gia phong trào vận động cách mạng ở Quảng Châu, biết tin nầy).
Sự việc nầy, người ta nói với nhau rằng, đã có vài cán bộ cộng sản ở Hà Nội giải thích rằng: "Cụ Phan đã già rồi, không còn thích hợp với cách mạng nữa, số tiền bán được dùng để nuôi dưỡng cách mạng Việt Nam (cộng sản)".
Sau nầy, sự việc cụ Phan bị Pháp bắt ở tô giới được biết rõ thêm. Ông Lâm Đức Thụ, tên thật là Nguyễn Công Viễn, người đại diện cho cụ Phan ở Hương Cảng, đã hợp tác với Hồ Chí Minh bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Tây để lấy tiền và cùng nhau chia số tiền ấy.
Hồ Chí Minh lấy tiền tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (tức là Đảng Cộng sản Hà Nội ngày nay). Còn Viễn lấy tiền tiêu xài trong các hộp đêm ở Hongkong.
Thật ra, Hồ Chí Minh cần phải loại Cụ Phan Bội Châu để có thể độc quyền yêu nước vì Cụ Phan là hiện thân của cách mạng ái quốc Việt Nam. Cụ còn là tấm gương chói sáng của tinh thần dũng cảm, lòng ái quốc và tiết tháo của sĩ phu không bao giờ chịu thỏa hiệp với giặc Pháp.
Và từ đó Hồ Chí Minh và Lâm Đức Thụ tiếp tục hợp tác với nhau chặt chẽ trong suốt nhiều năm nữa để bán tiếp các đồng chí của cụ Phan cho Pháp và những thanh niên Việt Nam không cộng sản tham gia chống thực dân Pháp ra khỏi Việt nam du học hoặc trốn mật thám Pháp.
Lúc bấy giờ thanh niên Việt Nam qua Quảng Châu theo học trường võ bị Hoàng Phố rất đông. Nhưng ai chịu gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (của Hồ Chí Minh) thì khi học xong sẽ được bảo vệ bí mật trở về nước an toàn. Còn những ai trung thành theo cụ Phan, tức theo cách mạng dân tộc thật sự, thì khi về đến biên giới Hoa-Việt, đều bị mật thám Tây bắt ngay. Vì trước đó, họ bị Hồ Chí Minh thông báo cho Lâm Đức Thụ ở Hương Cảng biết rõ lý lịch để Thụ đem nộp cho Lãnh sự Pháp ở Hương Cảng. Sau khi họ bị bắt thì Hồ Chí Minh và Lâm Đức Thụ được mật thám Tây thưởng tiền. Do đó mà Tổng chi bộ Việt nam Quốc Dân Đảng ở Quảng Châu dần dần mất liên lạc với quốc nội. Số thanh niên còn lại học xong đều không ai dám về nước. Họ đành ở lại Trung Quốc và theo đoàn quân cách mạng Dân quốc của Trung quốc. Cách mạng dân tộc độc lập của Việt Nam dần dần nhường chỗ cho cách mạng cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Từ nay, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết những người kháng chiến về với đảng cộng sản và bắt đầu thanh lọc khỏi hàng ngũ những người ái quốc không cộng sản với tội "Việt gian". Máu nạn nhân của Hồ Chí Minh loan rộng theo sự lớn mạnh của đảng cộng sản. Con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam quá đắt giá so với các quốc gia cùng cảnh ngộ, thế nhưng Việt Nam hôm nay vẫn chưa có được thật sự độc lập, tự do và hạnh phúc.
Lui về trước, Hồ Chí Minh cũng đã bán Cụ Trương Bội Công, một lãnh tụ của đảng Phục Quốc, cho cảnh sát Quốc Dân đảng. Do hành động này mà Phạm văn Đồng và Hoàng văn Hoan bị tố cáo là cộng sản và tổ chức cách mạng của Cụ Hồ Học Lãm hoạt động dọc biên giới Hoa-Việt, vì bị Đồng và Hoan xâm nhập, sau đó tan rã.
Tướng Trương Phát Khuê, chỉ huy vùng IV Trung quốc, có chính sách riêng về Việt Nam. Tháng 10-1942, ở Liễu châu, ông kết hợp tất cả các tổ chức, các đảng phái Việt Nam lưu vong ở Trung Quốc thành một mặt trận đồng minh địa phương dưới tên gọi "Liên đảng cách mạng Việt Nam" để giúp Trung Quốc tiến vào Đông Dương dễ dàng. Ông đề cử Cụ Nguyễn Hải Thần, một nhà cách mạng Việt Nam lưu vong từ lâu ở Trung Quốc, quên cả tiếng Việt, làm Chủ tịch Mặt trận mới thành lập này. Hằng tháng, ông cấp cho Cụ Nguyễn Hải Thần 100.000 đồng (tiền Trung Quốc) chi phí hoạt động.
Chỉ sau một thời gian ngắn, Tướng Trương Phát Khuê nhận thấy Cụ Nguyễn Hải Thần không đủ khả năng đảm trách công tác nên ông nghĩ phải cần đến Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chẳng những nhận lời không chút do dự, mà còn đề nghị tổ chức lại cho Quốc Dân đảng một hệ thống tình báo tại Bắc Việt. Trong thời gian bị Quốc Dân đảng bỏ tù vì bị phát hiện là cộng sản, Hồ Chí Minh dịch học thuyết "Tam Dân chủ nghĩa" ra tiếng Việt để tâng công với cai tù. Được cảm tình của Quốc Dân đảng, tháng giêng 1943, Hồ Chí Minh ra tù và bắt đầu nắm lấy "Liên đảng cách mạng Việt Nam" của Tướng Trương Phát Khuê. Hồ kết nạp tất cả các tổ chức kể cả Việt Minh. Một thỏa ước được ký kết tại Liễu châu. Việt Nam sẽ được giải phóng nhờ sự giúp đỡ của Trung Quốc. Liên đảng do các tổ chức quốc gia lãnh đạo, nhưng trên thực tế, Hồ Chí Minh lại là người nắm tiền. Hồ phát thảo một kế hoạch hợp tác trong tương lai giữa cách mạng võ trang Việt Nam và lực lượng võ trang Trung Quốc. Đến đây, Hồ Chí Minh đã thành công biến mặt trận quốc gia thành công cụ riêng phục vụ đường lối Đệ Tam của ông và ông, từ tên tù, trở thành một đồng minh của Quốc Dân đảng.
Địa vị vừa vững, Hồ Chí Minh liền tố cáo với Quốc Dân đảng Trung Quốc cụ Nghiêm Kế Tổ, một lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân đảng, là "người hợp tác với đế quốc Anh-Pháp".
Mùa xuân 1945, Hồ Chí Minh âm thầm qua Côn Minh nơi Hoa Kỳ đặt căn cứ ở Á châu để tìm cách tiếp xúc chính thức với Hoa Kỳ. Hồ Chí Minh sử dụng lại ngón nghề ruột là đề nghị phục vụ cho Cơ quan tình báo Hoa Kỳ (OSS), tiền thân của CIA. Nhưng Hoa Kỳ không thể vừa bỏ rơi lực lượng Âu châu ở Á châu, lại vừa muốn tìm sự hợp tác của họ ở Âu châu, nên phải thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Thật lòng rất muốn theo Hoa Kỳ, trong Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã mượn lời của Tổng thống Jefferson. Hồ Chí Minh cũng đã lập Hội Ái Hữu Việt-Mỹ, và hơn nữa, đã mở đại yến khoản đãi Tướng mỹ Gallagher.
Việt Minh bị lưỡng đầu thọ địch: Pháp ở trong Nam, Tàu ở ngoài Bắc. Ngày 9/9/1945, quân của Tướng Lư Hán vào Hà Nội. Bất thần, Hồ Chí Minh đến viếng vị cố vấn chính trị của Lư Hán. Khi gặp ông này, Hồ Chí Minh vui vẻ cất tiếng hát lại bài hát ca ngợi Quốc Dân đảng: "Tôi tin tưởng Tam Dân chủ nghĩa. Chính trị của Trung Quốc là chính trị của Việt Nam. Tôi mong đợi những lời dạy bảo và những mệnh lệnh của Trung Quốc. Và tôi hiến dâng mạng sống của tôi để bảo đảm an ninh cho quân đội Trung Quốc ở Việt Nam".
Hồ Chí Minh tiêu diệt những người Đệ Tứ Việt Nam vì chọn đứng về phía cầm quyền Staline. Ông lấy sự xung đột của Liên-Xô với cánh Đệ Tứ làm thành vấn đề của chính ông. Ông căm thù những người ái quốc lương thiện Việt Nam như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Nguyễn An Ninh, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, … giống y như Staline căm thù những người tro-kit ở Nga. Tại Bruxelles, năm 1927, Hồ Chí Minh nói với Lucien Laurat, một người mác-xít không theo Staline: " Tôi luôn luôn đứng về phe cầm quyền. Vì phe cầm quyền mới có thể ủng hộ tôi".
Hồ Chí Minh trong suốt đời luôn chọn thân phận tay sai cho các thế lực mạnh, thế lực cầm quyền, để được trở thành kẻ nắm chủ quyền nước mình.
Hồ Chí Minh, mặt khác, lợi dụng khoảng trống chính trị của tháng 8/45 ra tay thanh toán tất cả những người cùng tranh đấu chống thực dân dành độc lập mà không theo Đệ Tam để độc quyền lãnh đạo Mặt trận Việt Minh và kháng chiến.
Trở lại Cụ Phan Bội Châu. Bị bắt, cụ Phan Bội Châu bị Pháp kết án tử hình, làm cho người Việt Nam yêu nước vô cùng căm phẫn. Toàn quốc rầm rộ tổ chức biểu tình phản đối bản án của thực dân Pháp.
Cuối cùng, thực dân pháp phải chấp nhận bải bỏ bản án tử hình và quản thúc cụ Phan tại Huế.
Cụ Phan mất ngày 20 tháng 12 năm 1940.
Thế mà "tư tưởng" và "tấm gương" của Hồ Chí Minh được đảng cộng sản Hà Nội ngày nay không những bắt buộc đảng viên học tập và mà còn ra sức tuyên truyền, đưa cả vào sách giáo khoa giáo dục để nhồi sọ thanh thiếu niên "đạo đức Hồ Chí Minh". Thật là điều tai hại cho đất nước!






No comments:

Post a Comment