HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ
Showing posts with label NGUYỄN THIÊN THỤ * HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ. Show all posts
Showing posts with label NGUYỄN THIÊN THỤ * HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ. Show all posts

Thursday, July 26, 2012

HỒ CHÍ MINH XII * KẾT LUẬN



CHƯƠNG XII

KẾT LUẬN

Qua thực tiễn lịch sử và các cuộc nghiên cứu, ta có những nhận định sau:
1.Cộng sản là một Tổ chức quốc tế to lớn, chiếm một nửa diện tích và dân số thế giới.
2. Cộng sản quốc tế là một thứ thực dân, đế quốc trang bị bằng chủ thuyết Mac, nhân danh giải phóng giai cấp để xâm lược các nước bằng ý thức hệ cộng sản, bằng thủ đoạn tuyên truyền và khủng bố. Việc nước Nga thâu tóm các nước nhỏ thành liên bang Xô Viết, và việc xâm chiếm Đông Âu, việc Trung Quốc chiếm Tây Tạng, Mông Cổ, lấn chiếm Việt Nam và lăm le chiếm 80% biển Đông là những minh chứng rõ rệt về dã tâm xâm luợc của cộng sản. 
3.Cộng sản là một tổ chức quốc tế, theo chủ nghĩa quốc tế vô sản, hoàn toàn khác với chủ nghĩa quốc gia. Thực ra vấn đề vô cùng phức tạp. Trong khi các đảng viên, các đảng tại các nước phải tuân lệnh quốc tế, đặt quyền lợi quốc tế trên hết, gạt bỏ tinh thần quốc gia,  thì các nước lớn thâu tóm các đảng nhỏ, quốc gia nhỏ, biến họ thành tay sai của nước lớn. Như vậy danh nghĩa quốc tế chỉ là một hư danh, thực danh là đế quốc cộng sản.
4. Chủ nghĩa Mác với khẩu hiệu tranh đấu cho vô sản, cho công bình xã hội nhưng xã hội Pháp, Nga, Trung Quốc, Việt Nam ở thế kỷ 18-19, đại đa số là nông dân, và nhóm lãnh đạo cộng sản đa số là trí thức con nhà phong kiến, tư bản, it ai là công nhân. Nay thì đảng viên cộng sản gộc cùng vợ con, anh em trở thành tư bản đỏ còn dân chúng khốn khổ, bị đánh bị giết, bị tù tội, bị đói khổ, bị cướp mọi quyền tự do dân chủ, bị mất nhà mất đất.
5.HCM theo đệ tam quốc tế, làm tay sai cho quốc tế nhưng lại dùng nhãn hiệu quốc gia để lừa bịp lòng yêu nước của những người non dạ.
6. Đảng cộng sản Việt Nam và HCM đã tuyên truyền, quảng cáo cho HCM thành một con người tài giỏi, được quốc tế kính trọng, là một con người sống độc thân, hy sinh hạnh phúc bản thân cho dân tộc, bản chất của ông khiêm tốn giản dị, tiết kiệm...
Nhưng tất cả những điều trên là phóng đại quá mức, là hoàn toàn tô vẽ sai sự thực. HCM chưa học hết tiểu học, không đủ điều kiện học trường Quốc Học. Ông là một kẻ gian manh, đã lấy danh hiệu "Nguyễn Ái Quốc" cho riêng ông, bởi vì các bản văn do Nguyễn Ái Quốc viết là do tập thể nhóm người Việt yêu nước ở Pháp như Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu... là những áng văn chương tuyệt diệu của các tiến sĩ Luật khoa, cử nhân văn chương và triết lý viết để tranh đấu cho Việt Nam Độc lập Nguyễn Tất Thành là kẻ tiếm danh, sau này đảng Cộng sản Việt Nam lấy tất cả các bài viết của Nguyễn Ái Quốc đều cho là của HCM. Thực chất HCM không viết và nói được tiếng Pháp thông thạo trôi chảy. Tiếng Pháp của HCM là tiếng bồi.
7. Nguyễn Tất Thành lấy danh Nguyễn Ái Quốc để hoạt động tại Pháp rồi sang Nga năm 1923  làm tay sai cho đệ tam quốc tế. Năm 1924, ông sang Trung Quốc ở dưới trướng của Bododin, thay tên đổi họ. Ông đã là một kẻ bán nước, phản dân khi bán Phan Bội Châu và các đảng viên quốc gia yêu nước. Ông lại tiếm danh Hồ Chí Minh và Việt Nam Độc Lập Đồng Minh hội của Hồ Học Lãm, phá hoại các đảng phái quốc gia.
8. Ông bắt tay với Mỹ, được Mỹ giúp đỡ vũ khí trong 1945, ông thu nạp người Nhật, ông bắt tay với Pháp tàn sát các đảng viên quốc gia năm 1946. Ông ký hiệp ước sơ bộ đưa Pháp trở lại Việt Nam, ông cầu khẩn Mỹ giúp đỡ ông, nhưng người Mỹ từ chối vì thấy bản chất gian xảo tráo trở của ông và chủ trương thâm độc của cộng sản.
9.Suốt cuộc đờiHCM là những màn gian trá, quỷ quyệt, chuyên lửa nhân dân ta và nhân dân thế giới. Ông luôn tuyên bố hy sinh hạnh phúc gia đình cho sựn nghiệp giải phóng quốc gia. Nghe ra cao cả nhưng thực tế ông có nhiều vợ, nhiều con. Suốt đời, ông là khách chơi qua đường, không chịu trách nhiệm bổn phận người chồng, người cha. Ông còn nhẫn tâm giết Nông Thị Xuân và chị em của bà này vì bà đòi hỏi chánh đáng là HCM phải công nhận bà là vợ! Như vậy, HCM là một tên yêu râu xanh, phạm tội giết vợ!
10.Ông kêu gọi đoàn kết dân tộc nhưng ông đã mạnh tay thủ tiêu các đảng phái và tôn giáo và những người yêu nước như Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Phú Sổ... và vu khống đủ thứ tội cho họ mục đích chỉ là giành độc độc quyền yêu nước cho đảng cộng sản...
11.HCM bán Phan Bội Châu là phạm tội lừa thầy phản chủ. Ông dâng Trường Sa, Hoàng Sa, ông nhắm mắt cho Trung Cộng xâm chiếm biên cương, như vậy ông là kẻ bán nước trong khi ông luôn miệng cứu nước, thương dân và kết tội Bảo Đại và Ngô Đình Diệm tay sai Pháp, Mỹ.
12. HCM làm tay sai cho Nga Tàu, nhắm mắt thi hành các lệnh của Nga Tàu như CCRĐ, Cải Tạo Công Thương Nghiệp và chỉnh đốn đảng, giết oan hàng vạn nông dân nghèo, hàng vạn đảng viên có công kháng chiến, và gây đau khổ cho hàng triệu binh sĩ phải bỏ mình trên chiến trường,hoặc bị tàn phế, gây khốn khổ cho hàng chục triệu nông dân, công nhân phải chịu bệnh tật, đói rét trong các nông trường, công trường và HTX. 
13. HCM và cộng sản Việt Nam luôn theo chủ trương sùng bái cá nhân, đề cao lãnh tụ dù lãnh tụ dốt nát, tham dâm và tàn ác. HCM không có đạo đức cũng không có tư tưởng gì đặc sắc để xứng đáng đề cao. Ông là kẻ đạo văn, là kẻ tiếm danh, thiếu đạo đức của nhà văn, nhà chính trị. Ông cũng phạm tội giết vợ, bỏ rơi con cái, bán nước hại dân. Vì những lý do trên, việc đề cao đạo đức và tư tưởng HCM là một điều vô nghĩa. Việc làm lăng mộ ông là một điều xa xỉ trong khi cộng sản ca tụng HCM là con người tiết kiệm. Ông khoe khoang, kiêu căng, tự mình ca tụng mình, dám so sánh ông với vua Hùng và Trần Hưng Đạo. Ông ngạo mạn coi khinh Phật và Chúa, ông bắt người ta gọi ông bằng bác, ông ngoài năm mươi mà dám xưng là cha già dân tộc...Tất cả cho thấy ông không khiêm tốn như ông tự nói.
14 . Cộng sản sống bằng dối trá và tàn ác. Ngay tự ban đầu, HCM và đảng Cộng sản hình thành bằng những âm mưu xảo quyệt như bán Phan Bội Châu, chia rẽ, xâm nhập và phá hoại hàng ngũ quốc gia. HCM và đảng Cộng sản Việt Nam ban đầu là một tổ chức xã hội đen, một tổ chức khủng bố, họ đã tống tiền nhà giàu, và áp dụng các chính sách tàn bạo khủng bố nhân dân và đảng viên như việc Tôn Đức Thắng giết hại Lê Văn Phát một cách dã man(1), việc đảng Cộng sản khi thẩm vấn  đã chôn sống đảng viên vì người ấy nói Trần Văn Giàu là lãnh tụ cộng sản(2).Muốn đề cao lãnh tụ và đảng, họ đã tuyên truyền dối trá và hành động gian xảo. Họ khủng bố cho dân và đảng viên sợ mà tuân lệnh. HCM, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn đã giết những đảng viên đệ tứ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sô, Lê NGọc, Lê Văn Hương và đảng viên các đảng Quốc gia như Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Phú Sổ...Trong buổi phỏng vấn ngày 25 tháng 6 năm 1946, Hồ Chí Minh đã trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như sau: Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés (Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt). 

Họ giết hại, các đảng phái Quốc gia như trong vụ Ôn Như hầu; giết dân lành gồm đàn bà, trẻ con, người già như  vụ thảm sát Quỳnh Lưu; giết nông dân nghèo và đảng viên cán bộ cộng sản như trongCCRĐ, Cải tạo công thương nghiệp, Chỉnh đốn đảng, giết tập thể dân chúng như vụ mậu thân Huế, vụ hè đỏ lửa dọc đường Quảng trị.

15.HCM để lại một nền chính trị độc tài,phi dân chủ, một chế độ bóc lột và khinh miệt nhân dân, một tổ chức tham nhũng, tàn bạo, và một quốc gia suy đồi về văn hóa, giáo dục, chính trị, đạo đức, đang ở trên đà suy thoái và bị Trung Cộng xâm lược.

Tất cả những tội lỗi đó, HCM và đảng cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm. HCM là kẻ bị nhân dân nguyền rủa chứ không phải đề cao như bọn cộng sản hiện nay đang huyênh hoang tuyên truyền. Ngày phán xét cuối cùng sẽ đến.

____
 
(1).Trong đêm 8 rạng ngày 9 tháng 12 năm 1928, một vụ ám sát quá cổ hủ thô bạo đã diễn ra trong giữa phân bộ Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ở Nam Kỳ. Lê Văn Phát (bí danh Mỹ, Lang) bị đồng chí kết án tử hình vì tội phản bội, theo điều lệ của đảng, vì anh ta "ve vãn người chị em của chúng ta là Thị Nhứt". Tội của Phát là "không gạt bỏ tình riêng để toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng". Ba người trong số các đồng chí trẻ nhất của Phát (23, 24 và 26 tuổi) phải thi hành án quyết đã được tòa án cách mạng chuẩn y. Tôn Đức Thắng chủ trì tòa án, lúc đó 40 tuổi, đứng đầu kỳ bộ. Vì đâu, (vì tự ái, vì ghen tương?) án quyết thủ tiêu một đồng chí không tương xứng với "lỗi lầm", bí mật ấy vẫn âm u trong bóng tối.


Một vụ sát nhân chính thức, ba nạn nhân cùng một lúc, đáp lại vụ ám sát trên: Tòa đại hình Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1930 kết án tử hình ba người thi hành án quyết trên kia. Tòa chỉ tuyên phạt Tôn Đức Thắng (người sau này kế vị chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969) 20 năm tù khổ sai, và Phạm Văn Đồng (về sau là thủ tướng của chính phủ Hồ Chí Minh) 10 năm tù cấm cố. Hai mươi ba người khác trong phân bộ phải chịu án tù tổng cộng 100 năm. Phân bộ Thanh Niên Nam Kỳ hoàn toàn tan vỡ.


Hai năm năm tháng sau vụ ám sát, trong hoành cảnh phong trào nông dân thoái trào và thời kỳ khủng bố trắng, bọn cầm quyền bí mật chuẩn bị hành quyết những người bị kết án tử trong đêm 20 rạng ngày 21 tháng 5 năm 1931.


Máy chém dựng sồ sộ trước cổng Khám Lớn Sài Gòn, lính cảnh sát xếp hàng dày đặc ngăn đón các con đường, chánh sở mật thám có mặt tại đó, tay lăm lăm khẩu súng lục. Vào lúc bốn giờ sáng, ba cái đầu người cách mạng trẻ tuổi rơi xuống sau tiếng hô cuối cùng "Đả đảo đế quốc Pháp".


Trong giờ liền theo đó trong Khám Lớn, tù chính trị - kể cả tù đàn bà - nổi lên phản đối: "Đả đảo khủng bố trắng! Đả đảo đế quốc Pháp!", rùm lên náo động cả châu thành. Nước vòi rồng chữa lữa tưới ngộp những người tù phản kháng, bọn ngục tốt táo bạo đánh đập họ, cùm chân họ vào khoen sắt.


Sử chính thức cùng truyện ký về lãnh tụ không bao giờ nhắc lại vụ sát nhân thô bỉ. Nó có thể làm lu mờ hình ảnh "người anh hùng Hắc Hải", Tôn Đức Thắng được phong danh hiệu như vậy để kỷ niệm cuộc nổi dậy tháng 4 năm 1919 trên chiến hạm Pháp mà người dân thuộc địa là Tôn Đức Thắng được đội thủy thủ Pháp chỉ định kéo lá cờ đỏ thượng lên.


Nếu ai muốn biết rõ hơn, thì đây:


Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1928, mật thám phát hiện trong sân đàng sau căn phố số 5 đường Bacbiê, Sài Gòn, một xác người đàn ông đã bị biến dạng, mặt và tóc cháy xém, tay bị trói quặt sau lưng, họng bị cắt, ngực bị đâm hai chỗ.


Sau này người ta được biết người bị ám sát là Lê Văn Phát, đã từng là đại biểu đi dự Đại Hội lâm thời của Thanh Niên ở Hương Cảng. Sinh tại tỉnh Bến Tre, Phát làm thầy thuốc và cũng là hương lễ, một hương chức trông coi việc tế tự ở làng. Khi trở về Sài Gòn vào tháng 6 với danh nghĩa đại diện của Tổng Bộ bên cạnh Kỳ bộ Nam Kỳ - Kỳ bộ từ trước đến giờ do Tôn Đức Thắng chỉ huy. Thắng là người lớn tuổi hơn hết trong nhóm. Phát bị tòa án cách mạng do Tôn Đức Thắng chủ trì, xét xử bí mật và kết án tử hình vắng mặt. Người ta kết tội Phát "lạm dụng quyền hành do chức vụ đảng giao phó để hãm hiếp một nữ đồng chí."


Dù cho có những hình phạt nghiêm khắc theo như điều lệ qui định - mà Nguyễn Đình Tú phải nhớ kỹ khi gia nhập Thanh Niên năm 1926 - thì một hành vi không trong sáng (như uống rượu, cờ bạc, hay lui tới nhà điếm, cưới xin ngoài đảng, khước từ hoạt động chiến đấu do lãnh đạo giao phó) sẽ có thể dẫn tới bị khai trừ, chứ không phải tử hình như kẻ phản đảng (trốn sang trại địch, tự động hành động không có chỉ thị làm cho các đồng chí mất an toàn, chậm trễ thi hành chỉ thị, làm lộ bí mật của đảng, âm mưu phá đảng).


Kỳ bộ thành lập một tòa án vào đêm 29 tháng 11 gồm các đảng viên của Kỳ bộ Nam Kỳ và Tỉnh bộ Bến Tre tại nhà Bùi Văn Thêm, số 79 phố Pôlơ Bơlănsy. Trong số các thẩm phán đột xuất này có ba người là Trần Trương, Đặng Văn Sâm, Bùi Văn Thêm đã từng là thợ trong xưởng Kropff, nơi mà Tôn Đức Thắng làm cập rằng; Trần Trương và Nguyễn Tôn Nguyệt là bà con họ hàng với vợ Tôn Đức Thắng. Do đó uy tín của Thắng không phải chỉ vì có tuổi. Trước tiên ba thẩm phán trong phiên tòa đó bỏ phiếu chống tử hình. Nhưng áp lực của đa số là 5 thẩm phán kia làm xiêu lòng 3 người, họ tự lấn áp "tình cảm cá nhân" của mình đúng theo giáo lý (le catéchisme) do Quảng Châu đặt ra.


Trong số các đồng chí của Phát, ai sẽ là người thi hành án? Với nhiệm vụ khủng khiếp này, ba đồng chí trẻ tuổi nhất rút trúng thăm. Đó là Ngô Thiêm, bí thư Kỳ bộ, người Nghệ An; Nguyễn Văn Thinh, bí thư của Lê Văn Phát và là chủ bút tờ Công Nông Binh, sinh ở Gò Công; và Trần Thương, người Mỹ Tho. Họ còn phải đốt mặt Phát làm biến dạng xác chết theo sáng kiến của Thắng.


Sau đó Ngô Thiêm sang ngay Quảng Châu để báo cáo với Tổng bộ, mang theo biên bản của tòa án cách mạng. Tổng bộ phê phán bản án là "không tương xứng với lỗi lầm" rồi tuyên bố giải tán Kỳ bộ Nam Kỳ.


Mười sáu ngày sau vụ ám sát, sở mật thám nhận được tin tức do nhân viên "mật vụ ở nước ngoài" gửi về, nói đến tờ biên bản trên. Từ tháng 2 Tôn Đức Thắng đã bị bắt, rồi trong mùa hè, hơn hai chục chiến sĩ, dù có hay không dính líu tới vụ ám sát, lọt vào tay mật thám.


Một khi phát hiện xác chết, mật thám mở đầu tung mạng lưới bủa giăng vây bắt các tổ chức bí mật. Vì thế không chỉ 8 người mà là 45 người bị cáo phải đồng lượt ra trước tòa đại hình Sài Gòn, người thì bị khép tội "giết người có chủ ý trước", người thì bị cáo "âm mưu phá rối trị an nhà nước". Các trạng sư đề nghị xử riêng hai vụ việc nhưng bị bác bỏ. Tòa chỉ nhượng bộ ở một điểm là: hai vụ việc được xem xét lần lượt, và mỗi phạm nhân sẽ chỉ bị hỏi về những tội trạng mà mình có dính líu thôi. Nhưng dù sao xử án cùng một phiên tòa hai vụ việc hoàn toàn khác nhau cũng có một cái gì đó có tính chất gán ghép xáo trộn cốt để ảnh hưởng dư luận theo chiều hướng chính quyền.


Một năm rưỡi sau vụ ám sát mới đem xét xử, vào ngày 15 tới 19 tháng 7 năm 1930. Bầu không khí xã hội lúc đó đang hừng hực. Phong trào nông dân sôi động ở Nam Kỳ, còn ở Bắc Kỳ, 13 cái đầu của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị rụng dưới máy chém ngày 17 tháng 6 ở Yên Bái.


Theo tờ An Nam Hướng Truyền (Echo Annamite), Tôn Đức Thắng tuyên bố như sau:


"Ngô Thiêm đã dẫn dắt tôi vào hoạt động cách mạng. Tôi gia nhập Hội Thanh Niên Cách Mạng năm 1927. Tôi là đại diện của Tổng bộ Quảng Châu ở Kỳ bộ Nam Kỳ. Những mưu toan của Lang đối với em gái chúng tôi là Thị Nhứt khiến tôi lên án kẻ phạm tội đó. Tôi không hề đứng về phía tán thành cái hình phạt quyết liệt đó. Dù sao tôi cũng vì kỷ luật buộc phải tuân theo đa số. Chính tôi đã ra lệnh cho Thinh làm biến dạng bộ mặt xác chết."


Còn Phạm Văn Đồng, bị tố cáo âm mưu, thì tuyên bố rằng Đại Hội tháng 5 năm 1929 ở Hương Cảng quyết định là các đồng chí có dính líu đến việc thủ tiêu người đại diện của Tổng bộ vẫn có thể tái gia nhập đảng. Còn chính mình ông ông cũng hối tiếc vì thoạt tiên ông tán thành xử tử Phát, vì ông tưởng Phát "sắp phản đảng" (theo nguyên văn).


Từ trong văn bản biện hộ của các trạng sư Giaccôbbi, Lôyơ, Becnaa, Masơ, Đơgơrăn, Ferăn, Pinô, Tavecniê và Cănxenliêri, chúng tôi ghi nhớ lời nhận xét của Cănxenliêri vì nó gợi lại lời nhận xét của Nguyễn An Ninh trước tòa án năm trước:


"Người ta trách cứ những thanh niên này tham gia các hội kín. Thế nhưng những hội kín đó bao giờ cũng vẫn có, bởi lẽ họ những thanh niên này chẳng bao giờ có thể tự do tập hợp với nhau, bởi lẽ họ hiện thân những kẻ bị áp bức. Có một tình thế căng thẳng hiển hiện, nhưng người ta không tìm biện pháp chữa chạy. Cái đó đơn giản thôi, biện pháp đó là ban bố tự do, cái tự do mà chúng tôi đòi hỏi cho họ được hưởng cũng như ta đang được hưởng. Đó là vấn đề của cái nồi hơi và các sú páp an toàn của nó. Hơi nước sôi phải thoát ra, người ta không thể ép nén nó mãi được. Nếu các ông muốn ở đây có hòa bình, trước hết hãy thực hiện công lý, không phải là cứ xây dựng những khám tù mà các ông làm dịu tình hình được. Các ông đã gieo thù hận ở đây, các ông sẽ thu nhận thù hận."


Ngày 18 tháng 7 năm 1930, vào lúc 20 giờ, chủ tịch phiên tòa hạ lệnh "Giải tỏa phòng xử án, còng tay các tù nhân ngay sau khi tuyên án và dẫn chúng đi ngay, từng nhóm nhỏ. "


Án quyết như sau: Tử hình 3 người là Trần Trương, Ngô Thiêm và Nguyễn Văn Thinh.


Tôn Đức Thắng 20 năm khổ sai. Đặng Văn Sâm và Bùi Văn Thêm 10 năm khổ sai. Nguyễn Trung Nguyệt 8 năm khổ sai.


Cấm cố: 23 đảng viên hoặc cảm tình đảng Thanh Niên, trong đó có Phạm Văn Đồng, tổng cộng hơn 100 năm tù, 3 đảng viên Tân Việt(**), trong đó có Võ Công Tôn, nguyên là hội đồng địa hạt Chợ Lớn, cùng bị bắt với Nguyễn An Ninh năm trước; Nguyễn Phương Thảo (sau này tức là Nguyễn Bình, tham gia Việt Minh năm 1945); và Trần Huy Liệu, nhà báo (chuyển theo Cộng Sản ở Côn Nôn, sau này là bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh), tổng cộng 23 năm rưỡi.


Có 4 bị cáo được tha.


Những người bị án tù cấm cố, cũng như những người bị khổ sai, phần lớn đều bị đưa ngay ra nhà ngục Côn Đảo. Chỉ riêng nữ đồng chí Nguyễn Trung Nguyệt ngồi tù 8 năm tại Khám Lớn Sài Gòn.


Người ta sửng sốt vì lứa tuổi trẻ trung của những người bị kết án. Trong mười người thì chín người chỉ có từ 17 đến 28 tuổi; tuy nhiên nhiều người trong số đó đã từng bị kết án tù với thời hạn ngắn. Trong số những người bị kết án chỉ có một người duy nhất làm báo chuyên nghiệp là Trần Huy Liệu, Việt Nam Quốc Dân Đảng, còn bao nhiêu người là thư ký và giáo viên dạy trường tư, như Phạm Văn Đồng, họ tự viết các tờ báo tuyên truyền cổ động. Một số chiến sĩ làm ở bến cảng và xưởng cơ khí Sài Gòn, chúng ta hiếm thấy có thợ thủ công, chỉ nhận ra hai nhà nông, tiểu địa chủ.

(Trích từ "Việt Nam 1920-1945 Cách Mạng Và Phản Cách Mạng Thời Đô Hộ Thuộc Địa" của Ngô Văn, trang 126-131, sách phát hành tại California, Hoa Kỳ, năm 2000)
Hoàng Công Tâm
ddcnd.org
http://ttvnol.com/f_533/1022828
 + Vu án đường Barbier cũng được cộng sản nhắc lại: Cuối năm 1927, Châu Văn Liêm được kết nạp vào tổ chức cộng sản này, đến năm 1928 làm bí tư Tỉnh bộ Long Xuyên. Sau vụ án tại nhà số 5 đường Barbier, Tổng bộ lập Kỳ bộ mới, tháng 3-1929, Châu Văn Liêm được bầu vào Ban thường vụ Kỳ bộ Nam kỳ và được cử đi dự đại hội Thanh niên toàn quốc ở Hương Cảng (Trung Quốc). 
http://www.longan.gov.vn/chinhquyen/sovhtt/Pages/ChauVanLiem.aspx
+Tiểu sử Tôn Đức Thắng có ghi:
Từ năm 1920-1925, ông tham gia lập công hội bí mật ở xưởng đóng tàu Ba Son. Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, giữ chức Ủy viên ban Chấp hành Kì Bộ Nam Kì. Cuối năm 1928, ông bị Pháp bắt nhân vụ án ở đường Barbier - Sài Gòn (nay là đường Thạch Thị Thanh), bị kết án 20 năm khổ sai, lưu đày ra Côn Đảo đến ngày 23-9-1945 mới được trả tự do http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?key=Ch%E1%BB%A7+t%E1%BB%8Bch+T%C3%B4n+%C4%90%E1%BB%A9c+Th%E1%BA%AFng&type=A0
+ Nguyễn Minh Cần viết về vụ này như sau:Với thực chất đảng-hội kín của những kẻ âm mưu, ÐCSVN đặt ra một thứ kỷ luật sắt vô cùng nghiêm ngặt theo đúng tinh thần của Stalin. Nhiều người mới vào ÐCS thường không hiểu được vì sao lại gọi là "kỷ luật sắt"? Hồi năm1929, đại hội Việt Nam cách mạng thanh niên đồng chí hội (sau này xin viết tắt là Ðồng chí hội), tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam tự đặt cho mình nhiệm vụ "chỉ huy cách mạng Việt Nam... lập vô sản chuyên chính, làm cho cách mạng thế giới chóng thành", đã quy định hình thức "kỷ luật sắt" xử tử đối với các đảng viên phạm một trong những tội như: theo địch, làm hại đến an toàn của đồng chí, cố ý làm sai chỉ thị, mưu phá hoại hội, cố ý làm lộ bí mật (xem: "Lịch sử cận đại Việt Nam". Hà Nội 1963, t.4, tr.204). Ðiều đó chắc ít đảng viên cộng sản ngày nay được biết, cũng như không mấy ai được biết về những vụ xử án tử hình của tổ chức cộng sản đầu tiên ấy ở Việt Nam. Chẳng hạn, "vụ giết người ở đường Barbier, Sài Gòn" (nay là đường Lý Trần Quán, thuộc phường Tân Ðịnh, quận 1) hồi năm 1929 mà nạn nhân là một người lãnh đạo Kỳ bộ Nam Kỳ của Ðồng chí hội bí danh là Lang đã bị Kỳ bộ xử bí mật tuyên án tử hình vì tội "đã cưỡng ép nữ đồng chí Trần Thị Nhất bí danh là Lê Oanh 18 tuổi". Các tội phạm trong vụ giết người này là Tôn Ðức Thắng, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Kim Cương, Nguyễn Duy Trinh, v.v... đã bị Tòa án đại hình Sài Gòn kết án nặng ngày18.7.1930 (tài liệu sưu tầm của nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến). Hồi tháng 4.1994, người viết cũng đã được đọc về vụ án này trên một tài liệu gửi đến QTCS nhan đề "Từ bản cáo trạng của Tổng công tố Sài Gòn chống những bị cáo của vụ án ở đường Barbier" tại RSKHIDNI ở Kho 495, Bảng kê 154, Hồ sơ 564, trang 62-72, trong đó có đưa ra một chi tiết đáng nói ở đây: người bị giết tên là Tan Ðức Toang (vì phiên âm từ tiếng Nga nên chúng tôi không rõ họ Trần hay Tân và tên Toáng hay gì khác), người này đã đánh Tôn Ðức Thắng, nên bị đuổi ra khỏi đảng, sau đó anh ta lập ra tổ chức biệt phái Nam Kỳ Công hội (nếu dịch theo sát tiếng Nga là Liên hiệp nghiệp đoàn Nam Kỳ). Ðó là lý do bị giết. Cũng trên tài liệu này có ghi dòng chữ khó hiểu này: "có chú thích của M (?) - chúng tôi cho rằng cải chính điều bịa đặt của ông công tố về việc phân liệt là thừa". Dù nhìn dưới khía cạnh nào thì vụ án giết người này cũng đã xảy ra thật và những người phạm tội cũng là những con người có thật.


(2). Hoàng Tùng. HỒ CHÍ MINH, TRUNG QUỐC VÀ LIÊN XÔ 
Lúc đầu là Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Sơn, Ly' Ban, Trương Ái Dân, Cao Tử Kiến. Trương Ái Dân trong thời gian kháng chiến chống Pháp làm công tác công vận ở Liên khu III do tôi phụ trách. Đồng chí ấy nói với tôi rằng, sau cuộc khủng bố của Pháp năm 1930-31, đồng chí ấy sang Trung Quốc hoạt động cách mạng, được đi Diên An. Trong cuộc vận động chỉnh phong năm 1942-43, đồng chí ấy bị thẩm vấn lí lịch. Người ta hỏi người đứng đầu Đảng Cộng sản là ai, đồng chí ấy trả lời là Trần Văn Giàu, liền bị chôn một nửa người xuống hố sâu. 

Monday, July 16, 2012

HỒ CHÍ MINH XI * ĐẠO ĐỨC & TƯ TƯỞNG

  
CHƯƠNG XI

ĐẠO ĐỨC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Đa số đảng viên ca tụng đạo đức và tư tưởng HCM, nhất là sau khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Nam chạy theo Trung Quốc dổi mới, và họ vứt kinh tế Mác Lê vào sọt rác mà đi theo kinh tế tư bản, mặc dầu họ gọi là " kinh tế định hướng XHCN". Marx nhận định " hạ tầng vật chất quyết định thượng tầng cơ sở". Nay hạ tầng là kinh tế tư bản thì cái thượng tầng là kinh tế Mác Lê sao được? Hơn nữa, xưa nay họ khua chiêng gióng trống chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng, nay sao đột nhiên sụp đổ ngay tại thành trì cách mạng thế giới, quê hương của Lenin? Họ lúng túng. Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành. Phải đi tìm một cái gì thay thế Karl Marx, Lenin. Họ bèn đem đất sét ra nặn ra một thần tượng mới. 


Bên Liên Xô, Trung Quốc tệ nạn sùng bái cá nhân đã phổ biến. Cộng đảng đề ra "phê và tự phê" nhưng mấy ai thực hiện điều này! Thiên Chúa giáo có nhiều người xưng tội, Phật giáo có nhiều người niệm kinh sám hối, quân chủ có những Ngự sử quan lên tiếng chỉ trích quyền thần và khuyên can vua, tư bản có báo chí vạch trần sai lầm của nhà cầm quyền nhưng trong cộng sản phải ca tụng, nịnh hót đảng. Đảng bách chiến bách thắng, lãnh tụ anh minh thì làm sao có sai lầm. Chủ nghĩa cộng sản tự do vạn lần tư bản sao lại nói là không dân chủ. Ai nói lãnh tụ gian xảo, tàn ác, ai bảo dảng viên tham ô là phản động, là tay sai Mỹ cố ý bôi đen chế độ đẹp nhất trần gian! Thành thử người dân ai lên tiếng chỉ trích, hay biểu tình đòi tự do, phản đối Trung Cộng xâm lược, và đảng hèn hạ. quỵ lụy giặc thì bị bỏ tù, tấm gương Nhân Văn Giai Phẩm và Việt Khang , Thục Vy còn đó. 


Họ ca tụng đạo đức và tư tưởng HCM. Họ mở cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, sẽ bắt đầu từ ngày 3-2-2007 và tổng kết vào ngày 3-2-2011, tức trong bốn năm tròn.


Từ Trần Dân Tiên, HCM đã sùng bái ông, tôn thờ bản thân ông, do vậy mà đàn em hiểu ý ông, cứ phóng đại, tô vẽ lên mặt ông xanh đỏ tím vàng cho mặt ông thêm rực rỡ. Họ bảo ông có tinh thần cách mạng, từ thuở nhỏ đã ra đi tìm đường cứu nước,  hy sinh hạnh phúc gia đình cho nhân dân, ông khiêm tốn, sống đơn giản với đôi dép râu và bộ kaki bạc màu...Nhưng tất cả những lớp vôi xanh đỏ này đã rớt xuống bùn đen qua cơn dông bão làm thần tượng sụp đổ. Thật vậy, đạo đức gì ở một kẻ nói dối? Một kẻ lừa thầy phản bạn? Một kẻ đa sát, đa dâm? 


Họ đang cố viết về " tư tưởng HCM" nhưng quả thật HCM là một tay hoạt động chứ không phải là một nhà tư tưởng, dù là một nhà tư tưởng nhỏ xíu!

Trong xã hội cộng sản có nhiều triết gia.Marx dạy nhân loại tất yếu phải trả qua năm giai đoạn, nhưng Lenin lại bảo có thể tiến lên cộng sản chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Marx cho rằng công nhân là giai cấp tiên tiến nhưng Mao sửa lưng Marx bảo công nông đều là giai cấp tiên phong. Còn Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì cả. Ông cam phận học trò bưng tráp cho thầy năm này qua năm khác. Chính HCM đã nhiều lần tự thú là ông không có tư tưởng gì cả.
Trong đại hội tháng 2 năm 1951, Hồ Chi Minh phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Ðộng Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng Mao Trạch Ðông làm kim chỉ nam", và ông nói:"Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin."(1) 
 Một lần khác, có người đã hỏi HCM tại sao ông  không viết sách về lý thuyết cộng sản, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Ðông viết rồi.(2) 
Trả lời thế là đúng, vì ông không có tư tưởng gì, và cũng là một câu trả lời khôn, làm vừa lòng chủ, làm cho Stalin và Mao đẹp lòng xứng ý! 
 Lữ Phương cho rằng Hồ Chí Minh không hiểu chủ nghĩa Mác-Lê.Ông viết:


- Hồ Chí Minh chưa biết gì về chủ nghĩa Mác với tư cách là một học thuyết triết học-chính trị. Những khái niệm rất tầm thường trong báo chí có khuynh hướng thiên tả như đấu tranh giai cấp, bóc lột, sản xuất... ông còn chưa hiểu rõ, nói gì đến những tư biện về lao động tha hoá, gíá trị thặng dư, sứ mệnh giải phóng của giai cấp vô sản...?
- Đối với chủ nghĩa Lênin ông có biết đến nhưng lại rất hời hợt. Ông chưa đọc gì về Lênin, ngoại trừ bài Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên tờ L'Humanité tháng 7 năm 1920 trước Đại hội Tours vài tháng. Có đọc nhưng thật sự ông cũng chẳng hiểu bao nhiêu, ngay cả các khái niệm căn bản.
- Ông chọn lựa đi theo Lênin hoàn toàn chỉ vì, qua Đệ Tam Quốc tế, Lênin hứa giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập. Đó là một chọn lựa hoàn toàn cảm tính, vội vàng, phiến diện: chủ nghĩa Lênin là một học thuyết toàn diện về cáh mạng vô sản ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển, trong đó vấn đề giải phóng các thuộc địa chỉ là một bộ phận.
Với những thiếu sót trầm trọng như vậy, làm sao có thể gọi được là nghiêm chỉnh thái độ chọn lựa nói trên của ông?
Tất nhiên không thể không xét đến chuyện về sau, cùng với thời gian hoạt động, ông đã tiếp cận lý luận cách mạng ngày càng nhiều hơn. Nhưng dù vậy đi nữa thì cũng không vì thế mà coi sự chọn lựa ấy là tuyệt đối đúng, phải trung thành để chuyển giao cho các thế hệ mai sau.
(HCM, XCIX)
 
Tội nghiệp cho đám lý thuyết gia Hà Nội! Các vĩ nhân Marxist như Hải Triều, Trương Tửu,Trường Chinh, Tố Hữu, Trần Độ, Đặng Thái Mai, Trần Huy Liệu ... đã chết hết rồi, họ biết nhờ cậy vào ai? Lại nữa, không có bột sao gột nên hồ? Vì vậy mấy năm qua, hòn núi chưa đẻ ra gì cả, dù là đẻ ra con chuột nhắt!
 
Họ bèn đi lục lọi các bài diễn văn, các bài báo, và các bài thơ nhưng vẫn không thấy gì! Họ cho rằng bản Tuyên ngôn độc lập là tác phẩm lớn của HCM với câu mở đầu "Mọi người sinh ra đều bình đẳng" thì là của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, là kẻ thù của chủ nghĩa Mác Lê. HCM rất khôn ngoan. Ông hay ai đó đã thảo ra Tuyên ngôn độc lập rồi mời thiếu tá Mỹ là
Archimedes L. A. Patti góp ý (3). Nhiều tài liệu cho rằng Archimedes L. A. Patti đã thảo ra, có kẻ bảo ông chỉ đạo cho việc viết văn  kiện này. Nhưng sự thực không phải thế. Ông Hồ mời ông đến để xem một vật quan trọng. Khi viên thiếu tá Mỹ đến, ông đưa cho thiếu tá một bản nháp quốc ngữ. Trong Hồi ký " WHY VIETNAM?" ông nhắc lại việc đó: Theo ông, chính đó là một trong những lý do ông muốn gặp tôi. Ông gọi một người ở buồng bên mang bản thảo tới và đưa cho tôi với một dáng thoả mãn. Rõ ràng trong việc khởi thảo bản này đã có bàn tay già dặn của ông. Bản tài liệu đánh máy bằng tiếng Việt Nam, có nhiều chữ bị xoá đi và được viết đè lên bằng bút mực, với nhiều ghi chú bên lề. Tôi ngây ra, và ông Hồ thấy ngay là tôi không thể đọc được. Ông Hồ cho gọi một người trẻ tuổi vào để dịch và tôi chăm chú nghe.

 Trong mấy câu đầu, người phiên dịch đã nói lên một số danh từ rất đỗi quen thuộc và giống lạ lùng như bản Tuyên ngôn của chúng ta. Câu tiếp sau là “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ”. Tôi chặn người phiên dịch lại, kinh ngạc quay sang hỏi ông Hồ có thực ông có ý định sử dụng câu đó trong bản Tuyên ngôn của ông không. Tôi không hiểu sao điều đó lại đập mạnh vào tôi, cứ như là có cảm giác khi quyền sở hữu bị đụng chạm, hay là khi làm một việc ngớ ngẩn nào đó. Tuy vậy tôi cứ hỏi. Ông Hồ ngồi dựa vào ghế, hai tay úp vào nhau, ngón tay sát vào môi một cách nhẹ nhàng và đang như suy tưởng. Với một nụ cười nhã nhặn, ông hỏi lại tôi một cách dịu dàng, “Tôi không thể dùng được câu ấy à?”. Tôi cảm thấy ngượng ngập và lúng túng. “Tất nhiên”, tôi trả lời, “tại sao lại không?”. Bình tĩnh lại, tôi nói người phiên dịch đọc lại đoạn đó từ đầu một lần nữa. Anh ta đọc, “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ đã được Tạo hoá trao cho những quyền không thể chuyển nhượng lại được; trong đó có quyền tự do, quyền sống và được hưởng hạnh phúc”. (4)
 Như vậy là ông Hồ muốn thăm dò viên thiếu tá Mỹ, đồng thời trưng ra bản Tuyên ngôn này  là để lấy lòng người Mỹ, và cũng để loan truyền rằng bản tuyên ngôn này do người Mỹ viết ra, người Mỹ ủng hộ ông. Việc này cũng nằm trong kế sách " hồ mượn oai hổ" mà ông dùng thường xuyên. . Những viên thiếu tá này cũng như một vài người khác cho rằng ông Hồ "đạo văn", đạo văn Tuyên ngôn độc lập Mỹ 1776, và đạo ý  Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên.(5)
Những câu khác cũng vậy. HCM dùng câu văn của người mà không đặt trong vòng kép, hoạc dẫn là của tác giả nào. Các cán bộ Tuyên giáo thì nhắm mắt coi như là câu nói của HCM. 
Trước khi duyệt qua những bài viết của HCM mà nay đã tập trung trong Hồ Chí Minh Toàn tập gồm 8 tập, chúng ta phải biết rằng phần lớn các bài diễn văn, bài báo của các lãnh tụ xưa nay đều do các viên chức văn phòng Tổng Thống, Quốc Trưởng, hay thủ tướng chấp bút cho nên ta khó phân biệt giả chân.Trường hợp HCM cũng vậy.


Đọc những bài viết của HCM, ta thấy tựu trung có hai điểm:
1. Những câu ông nói có gốc ở văn chương triết lý Trung Quốc. Loại này khá nhiều.
(1). Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc, do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, HCM nói:Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Câu này là của Quản Trọng 管仲; 725 TCN - 645 TCN trong sách Quản Tử, nguyên văn là: Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc, thập niên chi kế, mạc như thụ mộc, chung thân chi kế, mạc như thụ nhân.一年之计,莫如树谷;十年之计,莫如树木;终身之计,莫如树人。
 (2).  HCM "viết"  tiếng Pháp từ năm 1921, trong Tạp chí cộng sản: “Lợi ích của nhân dân là trước hết, thứ đến là lợi ích của quốc gia, còn lợi ích của vua là không đáng kể”. 
Trong bài báo “Dân Vận” đăng trên báo Sự Thật số 120 ngày 15.10.1949, HCM  đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
  Ngày 17-9-1945, HCM  đã viết thư "để san sẻ ít nhiều kinh nghiệm với các đồng chí tỉnh nhà”. Trong thư, HCM đề cập đến việc xây dựng mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với nhân dân; chăm lo rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bức thư có đoạn: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân nghĩa là để gánh vác chung cho dân chứ không phải đè đầu dân... Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết sức tránh.Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta...Không biết rằng, thái độ kiêu ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến oai tín của Chính phủ.. ... Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. (HCM Toàn Tập IV, tr.65)
""Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa"( Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, NXB Sự Thật, trang 283.)
 Tư tưởng này vốn mượn Khổng Mạnh. Ví dụ Thư Kinh 書經: Dân duy bang bổn, bổn cố bang ninh 民惟邦本, 本固邦寧 Dân là gốc của nước, gốc vững thì nước yên ổn. Mạnh Tử viết: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh 民為貴,社稷次之,君為輕  Dân quý nhất, đất nước thứ nhì, vua thì coi nhẹ. Mạnh tử cũng nói :" Tặc nhân giả vị chi tặc; tặc nghĩa giả vị chi tàn;  tàn tặc chi nhân,  vị chi nhất phu;  văn tru nhất phu,  Trụ hĩ vị năng thí quân dã' “賊仁者謂之賊 , 賊義者謂之殘 , 殘賊之人 , 謂之一夫 , 聞誅一夫 紂 矣 , 未聞弒君也 Kẻ làm hại đức nhân, gọi là tặc; kẻ làm hại đức nghĩa gọi là tàn. Kẻ tàn, kẻ tặc chẳng qua là người thường mà thôi. Tôi từng nghe vua Võ Vương giết một người thường là Trụ, chớ tôi chưa hề nghe )giết vua.' ( Lương Huệ Vương hạ, tiết 8). 




Khổng Tử viết " “Dĩ dân vi bản” (lấy dân làm gốc). Trong những giai đoạn thịnh trị, các triều đại phong kiến khác cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi tư tưởng này. Và sau này, con trai của Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng đã nói một câu thấm thía và xót xa rằng: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng người không theo”.
Khổng Tử nói: Quân, châu dã, dân, thủy dã; thủy sở dĩ tải châu, diệc sở dĩ phúc châu (孔子曾說:君,舟也;民,水也,水所以載舟,亦所以覆舟)


Tuân Tử là văn gia khoảng thế kỷ III -thế kỷ IV, viết rằng "Quân, châu dã, độ nhân giả; thủy dã, thủy tắc tải châu, diệc thủy tắc phúc châu"( 荀子君者,舟也;庶人者,水也。水則載舟,水則覆舟). Cũng có sách chú : Quan do chu dã; dân do thủy dã; thủy năng tải châu, thủy năng phúc châu  官猶舟也,民猶水也;水能載舟,亦能覆舟.http://big5.zhengjian.org/node/78205


(3).HCM đọc trong trung tuần tháng 9-1950 nhân dịp thăm Đội thanh niên xung phong công tác trung ương đầu tiên :
Không có việc gì khó, 
chỉ sợ lòng không bền, 
đào núi và lấp biển,
quyết chí ắt làm nên
 Bài thơ trên xuất xứ ơ Ấu Học Ngũ Ngôn Thi
鑿 山 通 大 海
鍊 石 補 青 天
世 上 無 難 事
人 心 自 不 堅
Tạc sơn thông đại hải
Luyện thạch bổ thanh thiên
Thế thượng vô nan sự
Nhân tâm tự bất kiên.

(Đục núi thông ra biển
Đội đá, vá trời xanh
Trên đời không việc khó
Chỉ sợ lòng không kiên. )

Trước đó, Nguyễn Bá Học đã viết trong "Lời khuyên học trò":
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Một số câu khác như cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nhân, nghĩa, lễ, hiếu, trung vốn có nguồn gốc từ xưa trong kho tàng Nho học.

(4).Trong bài nói ngày 29- 12 tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, HCM nói: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng(Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập12, Nxb CTQG, H, 2000, tr185.)
Câu này lấy  từ câu của Khổng Tử: “Khâu dã văn hữu quốc hữu gia giả , bất hoạn quả , nhi hoạn bất quân , bất hoạn bần , nhi hoạn bất an , cái quân vô bần , hòa vô quả , an vô khuynh . Phu như thị , cố viễn nhân bất phục , tắc tu văn đức dĩ lai chi , ký lai chi , tắc an chi ..(Luận Ngữ, Thiên Quý thị)丘也有國有家者,不患寡而患不均,不患貧而患不安蓋均無貧,和無;寡,安無傾夫如是,故遠人不服,則修文德以來之。旣來之,則 安之」 (Ta từng nghe nói, vua chư hầu có nước, quan đại phu có nhà chẳng buồn vì dân ít, mà buồn vì của cải phân phối không đều, không sợ nghèo mà sợ không yên ổn. Của cải chia công bằng thì dân không nghèo nữa. Dân yên ổn thì không cảm thấy người ít, nước yên sẽ không còn ngả nghiêng nữa.)


2. Bên cạnh những tư tưởng cổ học Đông phương, HCM còn dùng những câu của tư tưởng Tây phương.
(1). HCM  thường nói tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ ... đó là do ảnh hưởng của tư tưởng Tây phương chứ không phải do ông sáng tạo.
(2).Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người" vốn là khẩu hiệu của " Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ" : One for all, all for one".
 (3). Trong bài nói chuyện tại buổi Lễ khai mạc trường Đại học Nhân dân Việt Nam vào ngày 19 tháng 1 năm 1955, HCM nói: 
Vạch rõ ranh giới là phải nhận rõ ai là bạn, ai là thù.(Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 7, tr. 454-455.) 
Câu này lấy ý của Lenin :"Ai không cùng với chúng ta thì đó là kẻ thù của chúng ta".Đấy là tư tưởng của vô sản chuyên chính, của giai cấp tính của người cộng sản.
 Những câu trên là những câu văn ngắn, HCM và cộng đảng Việt Nam đã lấy nguyên tác phẩm của người khác làm của minh, đó là những bài viết của Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường dưới bút hiệu Nguyễn Ái Quốc như đã trình bày trong chương về Nguyễn Ái Quốc. Và đó cũng là trường hợp cộng đảng tuyên truyền Ngục Trung Nhật Ký là của Hồ Chí Minh Việt Nam mà GS Lê Hữu Mục đã tố cáo. Cái tệ trạng đạo văn, ăn cắp công trình trí tuệ của người khác là một tội chung của chế độ cộng sản. Một nhà nghiên cứu đã nhận định tình trạng vô đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa như sau trong bài Plagiarism in Vietnam, a social evil: 
 If there are such things as social evils in Vietnam, plagiarism should be counted among them. The act of plagiarism cripples the academic and social communities in Vietnam and inspires laziness and lies rather than encouraging the community to professionalism and honesty. 

HCM  thuộc hạng người hoạt động chứ không phải là tư tưởng gia. Trí óc ông đầy những âm mưu xảo quyệt, tàn độc nhưng không có chỗ cho văn tài vì học lực ông chưa hoàn tất bậc tiểu học. Trong bảo tàng Marxist (Marxists Internet Archive) có nhiều danh nhân cộng sản nhưng không có tên tuổi ông Hồ.Ông Hồ là một cái thùng rỗng. Phan Khôi đã dùng lời chỉ trích Lỗ Tấn để chê cười Hồ Chí Minh như sau trong bài "Phê bình lãnh đạo văn nghệ":
Trong bài viết, có chỗ tôi nói Lỗ Tấn thông hiểu chủ nghĩa Mác lắm, nhưng trong văn chương của ông không hề dùng những danh từ mác-xít, mỗi khi đọc, làm tôi nghĩ đến con tằm: con tằm ăn dâu rồi nhả ra tơ, nếu nhả ra dâu thì không phải là con tằm. Ông Nguyễn Tuân hỏi tôi: “Nói như thế là định viser (ám chỉ) ai?” Đề nghị tôi nên chữa."(6)


Lỗ Tấn cũng như HCM được thiên hạ tôn là lãnh tụ  tinh thần của cộng sản nhưng trong các bài viết của Lỗ Tấn, Hồ Chí Minh không có hơi hám gì lý thuyết Mac xit. Phải chăng hai ông chẳng hiểu gì Karl Marx, Lenin? Hai ông chỉ là sâu róm, không phải tằm nhả ra tơ! 


Giả như những bài viết trong Hồ Chí Minh Toàn Tập là của ông cũng không có giá trị tư tưởng bời vì đó chỉ là những lời đầu môi chót lưỡi nhằm lừa bịp nhân dân trong nưóc và thế giới.
+Những lời ông tuyên bố tìm đường cứu nước, đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp thì ông cũng như Lenin sau khi cầm quyền đã tước đoạt mọi thứ tự do của nhân dân. 
HCM luôn nói độc lập tự do nhưng thực tế dân mất mọi thứ tự do và lệ thuộc Nga , Tàu và nay thì Trung Cộng đã xâm lấn biên cương và hải đảo, mà Việt Nam phải cúi mặt phục tùng, cam tâm thân phận nô lệ.
+Ông kêu gọi đoàn kết dân tộc thì ông đã cho đồng bọn ám sát và liên thủ với Pháp giết các chiến sĩ quốc gia .Rõ ràng cộng sản  phản quốc, hại dân, không hề có tinh thần quốc gia dân tộc. Rõ ràng là với thuyết giai cấp đấu tranh, cộng sản đã nhân danh vô sản, nhưng thực tế dân vô sản vẫn tiếp tục bị bóc lột, trong khi cộng sản trở thành tư bản đỏ, cướp bóc tài sản quốc gia và tài sản nhân dân. .
+ HCM luôn nói dân chủ nhưng là một thứ dân chủ giả hiệu. HCM nói dân làm chủ nhưng thực tế, dân là nô lệ. Đảng cử dân bầu, dân chủ tập trung chỉ là những lời dối trá của cộng sản độc tài, tàn bạo và phi dân chủ. Quốc hội cộng sản là một lũ bù nhìn, công an, quân đội là lực lượng trấn áp nhân dân mặc dù họ xưng là quân đội nhân dân, công an nhân dân.
+ HCM luôn nói đến "phê và tự phê" nhưng đó chỉ lời nói và hành động dối trá  vì từ Liên Xô, Trung Quốc, công sản bắt mọi người tung hô lãnh tụ, ca ngợi chế độ theo thuyết" hiện thực xã hội chủ nghĩa" dù cho lãnh tụ dâm dục, tàn bạo, tham quyền cố vị, và đảng là một lũ sâu mọt.



Nói tóm lại, Hồ Chí Minh không có đạo đức và cũng chẳng có tư tưởng gì cả. Ông là kẻ tội  đồ của dân tộc, một kẻ bán nước cầu vinh. Ông đã lãng phí xương máu dân tộc trong một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đã dẫn dắt dân tộc đi xuống địa ngục của cộng sản chủ nghĩa. 


_____


(1) . Nguyễn Văn Trấn. Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội.Văn Nghệ, California, tái bản năm 1996,150-152
(2). Oliver Todd,  "Huyền thoại Hồ Chí Minh", Nguyễn Văn dịch, đăng trong sách Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 276.
(3).+The Declaration was written with the advise of OSS Detachment 101 Maj. Archimedes Patti.
It is based on the American Declaration of Independence and the Declaration of the Rights of Man and Citizen.(Wikipedia)


+ August 1945. Japanese sign the surrender agreement in Tokyo Bay formally ending World War II in the Pacific. On this same day, Ho Chi Minh proclaims the independence of Vietnam by quoting from the text of the American Declaration of Independence which had been supplied to him by the OSS -- "We hold the truth that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable rights, among them life, liberty and the pursuit of happiness. This immortal statement is extracted from the Declaration of Independence of the United States of America in 1776. These are undeniable truths." 
http://www.historyplace.com/unitedstates/vietnam/index-1945.html
+Patti also cooperated with Ho in drafting the Vietnamese Declaration of Independence, which Ho delivered in Hanoi Square on Sept. 2, 1945--much of it based directly on the American Declaration of Independence.50 Years Since Dien Bien Phu
By: Gail G. Billington.
http://www.acic.info/new_article/French_Empire.pdf
(4).Archimedes L.A. Patti. Tại sao Việt Nam?Lê Trọng nghĩa dịch.ch23.


(5).Ho Chi Minh plagiarized a famous statement from the Declaration of Independence of the USA: "All men are created equal." Under his regime's title "Democratic Republic of Vietnam" is the motto - still remaining today - "Independence - Freedom - Happiness," which was again plagiarized from the Sun Yatsen's "Three-People Doctrine."  http://www.vietquoc.com/0007vq.htm 
+ Ho Chi Minh even plagiarized a famous statement from the American Declaration of Independence: "All men are created equal...www.nvnews.net 
(6).Nguyễn Thiên Thụ. Nhân Văn Giai Phẩm Toàn Tập.(195. TÁC PHẨM PHAN KHÔI)


HO CHI MINH IX * QUỐC GIA & QUỐC TẾ




CHƯƠNG IX

  QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ 


I. CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN MẠC TƯ KHOA

Những tin tức cho rằng thuở nhỏ Tất Thành có tinh thần chống Pháp, đã tham gia biểu tình chống thuế, và cha con, anh em ông có tinh thần cách mạng, nhưng sự thực không phải thế. Trong cuộc Trung Kỳ kháng thuế, cụ Bảng thăng tri huyện và Tất Khiêm, Tất Thành theo cha vào Bình khê, học Quy Nhơn. Sau khi cụ Bảng bị cách chức, Tất Khiêm làm việc ở tòa Khâm, còn Tất Thành lên tàu thủy sang Pháp. Có ý kiến cho rằng Tất Thành sang Pháp là để xin  xá tội cho cha, nhưng xin xá tội  thì xin ở Việt Nam cũng được cần gì phải sang Pháp?  Những khám phá mới cho biết Tất Thành đi Pháp và xin học trường Thuộc Địa. Đây là một sự thực nhưng muốn học, muốn làm quan thì tại Việt Nam thiếu gì trường mà phải sang Pháp? Tất Thành chưa đỗ tiểu học thì chỉ xin làm viêc lặt vặt hay thư ký ở các văn phòng tỉnh, huyện mà thôi. Có lẽ nhà nghèo, Tất Thành phải xin làm bồi để sinh sống, và ông không nhiều tiền nên có lẽ phải đi chui. Việc xin học trưởng Thuộc Địa chỉ là một việc cầu may. Từ 1911 đến 1919, Tất Thành chỉ làm nghề lao động. Sau 1919, sang ở với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, cậu Ba mới bắt đầu học hỏi chính trị. Ban đầu, cậu không hiểu gì. Có lẽ ban đầu cũng như mọi người Việt Nam, cậu Ba cũng có ý thức dân tộc. Nhưng sang Pháp, ông thấy người ta theo đảng Xã Hội, và cũng vì Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường hoạt động cho  đảng xã hội, Tất Thành cũng theo đảng Xã hội, nhưng ít lâu, ông chống đảng Xã Hội, theo quốc tế II, rồi chống Quốc tế II, theo Quốc tế III. Tuy theo Quốc Tế III, hết lòng than khóc Lenin, cậu Ba cũng bị người Nga coi thường.

Trước khi đi sâu vào mục này, chúng ta xem lại lịch sử đảng cộng sản. Marx tuyên bố rằng "Công nhân không có tổ quốc" (TUYÊN NGÔN CỘNG SẢN II, 5).
  Vì theo chủ trương Quốc tế vô sản, Marx cũng như Lenin, Stalin đã ủng hộ phát xít Đức trong khi một số đảng viên cộng sản không theo chủ trương của Marx, trái lại họ đoàn kết với đất nước họ chống phát xít, xâm lược bảo vệ tổ quốc của họ, do đó Quốc tế II tan rã.
Lenin cũng như Hồ Chí Minh chỉ cầu chiến thắng, không quan tâm đến tổ quốc của họ. Lenin nói:
Tôi không quan tâm đến nước Nga sẽ ra sao. Đồ chó đẻ! Tất cả chỉ là đi đến cách mạng thế giới mà thôi! (1)

Quốc tế III ra đời ( 1919-1943) do Lenin và Stalin lãnh đạo. Lenin triệt để theo chủ nghĩa cộng sản, ông theo Đức để lật đổ Nga hoàng mặc dù Đức xâm lăng nước ông. Stalin cũng theo chân Lenin, làm tay sai cho Đức với lý tưởng tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, nhưng trong đệ nhị thế chiến, Đức xâm chiếm Nga, đánh bại Hồng quân Liên Xô nên Stalin phải liên kết với Mỹ.

Khi đã theo Quốc tế III, tất nhiên cậu Ba đã hiểu rõ vấn đề này. Thành thử những ai viết rằng cậu Ba có tinh thần quốc gia, cậu Ba có tinh thần yêu nước là họ đã sai lầm.  Các ông Liên Xô, Trung Quốc, và Ngô Gia tự đã phê phán HCM có tinh thần quốc gia thì đó cũng là cách gán tội người khác theo đường lối cộng sản. Lý Thụy đã theo cộng sản tức là đã hủy diệt lòng yêu nước. Tất cả là do âm mưu xảo quyệt và thủ đoạn tàn ác của ông hoặc của đệ tam quốc tế.

Từ 1922, Nguyễn Tất Thành tìm đến Mạc Tư Khoa là ông đã làm tay sai cho đệ tam quốc tế. Sau ông sang Trung Quốc, ở dưới trướng của Borodin, thì ông đã chính thức trở thành " cán bộ",  là điệp viên của Nga, Tàu.

 Theo tài liệu của Mường Giang, từ đầu Nguyễn Ái Quốc đã tạo một lực lượng cộng sản Việt Nam theo Liên Xô. Những người này tuổi trẻ, được Lý Thụy gửi qua Liên Xô học tập. Sự kiện này chứng tỏ Lý Thụy là tay sai của đệ tam quốc tế kể từ 1924 khi ông phục vụ dưới trướng Borodin. Mường Giang cho biết:
Nhờ em ruột của Nguyễn thị Minh Khai là Nguyễn Hữu Dung, mới đây có khoe thành tích của anh rễ mình là Lê Hồng Phong, trên báo đảng Thế Giới Mói, số 328 ngày 22/03/1999, chúng ta mới biết thêm nhiều chuyện cán bộ VC bí mật theo học tại Liên Xô mà trước đây Đảng dấu nhẹm vì sợ bại lộ chân tướng.  Theo tài liệu cho biết, trước khi Hồ Chí Minh qua nhân vật Lý Thụy tới Quảng Châu để phụ tá Toàn Quyền Liên Xô là Boradin, thì tại đây đã có tổ chức Tâm Tâm Xã thuộc VN Quang Phục Hội, do Phan Bội Châu và Cường Để thành lâp. Trong nhóm đa số gồm nhiều thanh nước yêu nước trí thức, đa số người hai tỉnh Nghệ An và Hà Tỉnh, trong đó có Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong .Chính Phan Bội Châu đã can thiệp với Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Đốc Chỉ Huy trưởng Trường Sĩ Quan Hoàng Phố, thu nhận các thanh niên VN vào học. Do trên Lê Hồng Phong đã được nhập học tại đây từ tháng 07/1924. Năm 1925, Hồ và Lâm Đức Thụ bán Phan Bội Châu cho Pháp, đồng thời tiếm trọn tổ chức Tâm Tâm Xã lúc đó như rắn mất đầu, bằng tiền bạc, khuyến dụ đưa những thanh niên yêu nước chân thành trong trắng, bước vào con đường nhuộm đỏ VN, cũng như giúp xác, máu, đưa Hồ lên đài danh vọng. Do trên, vào tháng 10/1926, Lý Thụy bí mật đưa nhiều thanh niên như Lê Hồng Phong, Trần văn Giàu ... sang học tại trường Phương Đông Lenin – Liên Xô. Trước đây không ai biết trường này đã dạy những gì nhưng theo lời Nguyễn Hữu Dung, thì tại đây Lê Hồng Phong được học đủ thứ, qua một thời gian dài từ tháng 10/1926 cho tới năm 1931, mới tốt nghiệp. Theo đó thì Phong đã trải qua các khóa Lý luận quân sự không quân tại Leningrad, lớp phi công tại Borisglevsk, trước khi chính thức vào học các khóa 2 và 3 tại trường Phương Đông mà Hồ đã học khóa trước. Cũng nhờ khoe, mà chúng ta biết thêm được chuyên có nhiều người VC đã cầm súng bảo vệ cho LX, khi nước này bi Đức tấn công ngày 21/06/1941. Do trên, ngày 12/12/1985 nhân dịp kỹ niệm 40 năm LX ciến thắng Dức Quốc Xã, đích thân E.C.Ligachov, Ủy viên Bộ Chính Trị Cọng đảng LX, đã ký sắc lệnh truy tặng huân chương chiến tranh vệ quốc hạng nhất cho 5 VC đã thí mạng bảo vệ Mạc Tư Khoa khi bị Đức tấn công. Đó là Vương Thúc Chính, Lý Nam Thanh, Lý thúc Chắt, Lý Anh Tạo đã được Lý Thụy gởi từ Quảng Châu tới Nga, trong lúc họ mới lên 12 – 13 tuổi. Ngày 14/08/1941, Liên Xô thành lập Lữ Đoàn Bộ Binh Cơ Giới, gồm toàn cán bộ cộng sản chư hầu đang có mặt ở đây, trong đó có VC, để bảo vệ thủ đô. Ngày 07/11/1941, Lữ Đoàn này được lệnh ra tiền tuyến, đối mặt với quân Đức và sau đó không có một người sống sót. Hiện cuộc tìm kiếm những oan hồn lãng tử VC tại Nga chưa chấm dứt nhưng Đảng đã rất lấy làm vinh dự có 12 đồng chí VN, noi theo bước chân lãnh tụ vĩ đại Nguyễn Ái Quốc, đã xã thân phục vụ tốt cho nước tổ Liên Xô. (Mường Giang, HCM, LX)
Nấp bóng Nga, Tàu, ông xây dựng cơ sở cộng sản Việt Nam tại Trung Quốc. Lúc bấy giờ Quốc Tế và Việt Nam chưa rõ bộ mặt công sản gian ác. Dân Á Phi bị thực dân Pháp và đế quốc Anh đô hộ nên họ hướng về Liên Xô để cầu mong sự hỗ trợ lớn lao  về tinh thần cũng như vật chất để giải phóng đất nước. Một số thanh niên Việt Nam đã hướng về Liên Xô, chỉ có Phan Bội Châu là sáng suốt mà từ chối gia nhập " tín ngưỡng cộng sản" vì cụ đã thấy cái thòng lọng trên đầu cụ và dân tộc Việt Nam, nhất là khị cụ đã kinh qua kinh nghiệm đắng cay của người Nhật với chủ thuyết " Đông Á của người Á Đông"...
Lúc bấy giờ Tôn Dật Tiên đã thành công trong cách mạng tân hợi 1911 và xây dựng nước Trung Hoa Dân quốc. Đó cũng là một mô hình lý tưởng cho những nhà cách mạng Việt Nam. Cụ Phan Bội Châu ban đầu chủ trương quân chủ, sau chuyển sang dân chủ và bắt đầu xây dựng cơ sở theo mô hình Quốc dân đảng của Trung Quốc. Và lúc bấy giờ Tôn Dật Tiên đã thay đổi đường lối chính trị, từ lúc ban đầu hướng về  các quốc gia tư bản, sau ông hướng về Liên Xô cộng sản. Và Liên Xô cũng muốn nhuộm đỏ Trung Quốc và Á Châu mà ban đầu là yểm trợ Trung Hoa Dân quốc và thâm nhập Trung Hoa Quốc Dân đảng. Stalin hạ lệnh đảng cộng sản Trung Quốc phải hoà hợp liên minh với Tôn Dật Tiên và Trung Hoa Quốc Dân đảng. Cha con Tưởng Giới Thạch đều sang du học Liên Xô. Một số cán bộ cao cấp của Đảng CS. Trung Hoa như Mao trạch Đông đã được bầu vào Ban Chấp Hành trung Ương Quốc Dân Đảng. Trường Võ Bị Hòang Phố, do Nga bảo trợ khai giảng ngày 15/06/1924 do Tưởng Giới Thạch làm Giám Đốc, còn Chu Ân Lai phụ trách chính tri. Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng đã xảy ra tại Quảng Châu, trong buổi lể kỷ niệm lần thứ 13 cách mạng Tân Hợi (10/10/1911), làm nhiều người cả hai phe thương vong, đồng thời đã khiến Tôn Dật Tiên tỉnh mộng, nên ông bỏ lên Bắc Kinh để hợp bàn chuyện thống nhất đất nước và kêu gọi tình hữu nghị Hoa-Nhật, khiến Liên Xô thất vọng vì kế hoạch bị đổ vỡ . Vì giai đoạn Quốc Cộng hợp tác, Lý Thụy, Hoàng Văn Hoan cũng được các nhà cách mạng Việt Nam đón tiếp, và Lý Thụy cùng đám đệ tử tham gia các tổ chức của  Phan Bội Châu, Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần. Họ nương theo Quốc dân đảng nhưng lại hoạt động cho cộng sản. 

II. MỤC ĐÍCH VÀ CHIẾN THUẬT CỦA HỒ CHÍ MINH
Dù là hai hay nhiều HCM, HCM giả để bảo vệ, hay HCM đánh tráo NAQ, đều cùng theo một đuờng lối. 
1. HCM trước sau có những mục đích giống nhau:
(1).Theo đuổi danh lợi, quyền bính.
(2).Làm tay sai cho Liên Xô, Trung Quốc để cầu lợi.Theo chủ nghĩa cộng sản, thì không có tinh thần quốc gia. Từ năm 1923, ông đã bán linh hồn cho cộng sản, ông không thể đảo ngược tình thế và chí hướng ông.

 2. HCM có những chiến thuật giống nhau:
(1). Bám theo những người, những tổ chức có danh vọng đề mưu lợi cho bản thân ông và đảng Cộng sản.
+ Ông đã theo nhóm cách mạng Việt Nam tại Pháp của các cụ Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường để rồi cướp danh hiệu Nguyễn Ái Quốc của những người này. Ông cũng dùng thủ đoạn này khi Lý Thụy, Hoàng Văn Hoan tìm đến Hồ Học Lãm rồi cướp danh Hồ Chí Minh và danh hiệu Việt Nam Độc lập Đồng minh hội của Hồ Học Lãm.
Ông mang tên Hồ Chí Minh là để lừa dối Quốc Dân đảng Trung Quốc vì Hồ Chí Minh là bí danh của Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng quốc gia và cũng là một tướng lãnh của Quốc Dân đảng, và cũng lừa dối nhân dân Việt Nam. Ông không xưng là  Nguyễn Ái Quốc vì tại Việt Nam người ta nghe danh Nguyễn Ái Quốc là cộng sản mà chống đối ông. Cũng vì muốn che giấu quốc dân, Hồ Chí Minh đổi tên đảng Cộng sản là đảng Lao Động. Lẽ dĩ nhiên đây là cái thuật nhỏ mọn của ông, trước kia nếu ông không xưng là đảng Cộng Sản thì người ta có thể tin. Ông đã mang tên Cộng sản nay đổi là Lao Động cũng chỉ là một cái mặt nạ khác, không che được bản lai diện mục của loài lang sói hung tàn.


+Xâm nhập hàng ngũ quốc gia để lấy tin tức tình báo, chia rẽ và lôi kéo hàng ngũ quốc gia theo cộng sản, đồng thời phá hoại hàng ngũ quốc gia  để phát triển đảng  cộng sản.Thực thi quỷ kế này, ông đã chiếm danh Hồ Chí Minh và Việt Nam Độc Lập Đồng minh hội của Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần. Ông lợi dụng tổ chức Vìệt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, cho người xâm nhập, cướp tổ chức Tâm Tâm xã của Phan Bội Châu thành tổ chức của ông. Ông đã bán Phan Bội Châu và hàng trăm nhà cách mạng không theo cộng sản cho Pháp. Ông nói xấu và tìm cách chia rẽ nội bộ các đảng phái quốc gia. Sau lôi kéo Hồ  Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ, Vương Thúc Oánh, ông phát triển đảng cộng sản Việt Nam.
+Ông đã xâm nhập rồi nhờ bàn tay Pháp bắt giam, sát hại các đảng phái quốc gia, sau đó thâu tóm các tổ chức này như HCM đã thâu tóm đảng Tân Việt của Đào Duy Anh, Đặng Thái Mai.
+Ông cũng dùng quỷ kế này, lấy danh ngưiời Quốc tế III, ông thống nhất ba đảng cộng sản , biến họ thành tay sai của ông, thế lực của ông. Những lãnh tụ của ba đảng cộng sản này đã bị ông chặt vây cánh và đẩy vào chỗ chết. Ông đưa Ngô Gia Tự vào Nam là vùng đất lạ, rồi cho Trường Chinh thay thế, sau đó các lãnh tụ cũ đều bị rơi vào tay Pháp, hoặc bị bệnh mà chết có lẽ do HCM thì hành thủ đoạn mượn dao giết người như kế sách thực hiện trên bản thân Phan Bội Châu, hoặc tự tay ông chém giết hoặc hạ độc. Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai,Ngô Gia Tự,  Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ, Nguyễn Bình...đã chết một cách bí ẩn. Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Đặng Thái Mai, Đào Duy Anh, Trương Tửu may mà được chết già!



(2).HCM sẵn sàng làm tay sai cho đối phương, hoặc tạm thời liên minh  để cầu lợi, bất chấp danh dự, nghĩa khí. Ông theo cộng sản, nhưng ông biết nhân dân Việt Nam không thích cộng sản. Cuộc nổi loạn Xô Việt Nghê Tĩnh đã là một vết máu trong lịch sử Việt Nam khiến lòng người oán ghét cộng sản. Để thực hiện âm mưu này, ông luôn giấu mặt thật cộng sản , mang mặt nạ quốc gia để lấy lòng những người và thế lực thù địch với cộng sản.
Trước khi theo cộng sản, Nguyễn Tất Thành gặp nhiều  nguy khốn, phải lao động cực nhọc đã nghĩ đến việc xin làm tay sai cho Pháp bằng cách xin  học trường Thuộc địa.Ông sẵn sàng theo các thế lực như hội Tam Điểm, đảng Xã hội và sau là theo Cộng sản để mưu lợi. Mưu mánh này HCM đã thực hành khi ở với Hồ Học Lãm, khi tiếp xúc với Trương Phát Khuê. Nhờ lòng tốt của Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần mà Lý Thụy được Trung Hoa tha, và để cho Lý Thụy, Hoàng Văn Hoan ở trong nhà Hồ Học Lãm và làm việc trong Việt Nam Độc Lập Đồng minh hội.Nhiều người cho rằng HCM có khuynh huớng quốc gia khi ông dịch Tam Dân Chủ Nghĩa. Đó chẳng qua là nịnh hót, bịp bợm để lừa Trương Phát Khuê khi ông ở  trong nhà tù Quảng Đông.
Khi ở Trung Quốc, sau khi bị Trương Phát Khuê bắt, NAQ sàng làm gián điệp cho Trương Phát Khuê. Chính tài liệu Việt cộng cho biết:

Đầu năm 1943, từ trong nhà tù, Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư cho Trương Phát Khuê, viên lãnh chúa quân phiệt nam Trung Hoa, cũng là một thủ lĩnh quan trọng của Quốc dân đảng, từng tranh chấp quyền bính với Tưởng Giới Thạch và thường có quan điểm riêng của mình về Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc nói với Trương Phát Khuê nếu được trả tự do, ông sẽ tập hợp mạng lưới tình báo của mình ở Đông Dương và sẽ cộng tác với Trương. Nhận được bức thư, Trương ra lệnh thả ông ra khỏi nhà tù ở Liễu Châu không cần báo cáo cho Tưởng Giới Thạch biết. Và chính từ thời điểm Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh, trước hết là để giấu lai lịch đối với Tai Li, trùm mật vụ của Tưởng. Với tên Hồ Chí Minh, ông trở thành người cầm đầu một tổ chức tập hợp rộng rãi các nhóm cách mạng người Việt gọi là Đồng minh Hội, được Trung Hoa Quốc dân đảng ủng hộ, còn Việt Minh do cộng sản tổ chức lúc đầu cũng chỉ là một bộ phận của tổ chức này.(2)
  Và sau này ông làm gián điệp cho Mỹ. Ông đã hợp tác với các tổ OSS tại Trung Quốc và tại Việt Bắc. Ông khéo giấu nanh vuốt,ông luôn tỏ ra là người quốc gia, thành thử nhiều người Mỹ mắc mưu trong đó có Archimedes L.A. Patti đã chuyển thư của HCM cho tổng thống Mỹ và đề nghị giúp đỡ HCM. Và cũng vì điểm này cho rằng người Mỹ đã bỏ lỡ cơ hội. Nếu Mỹ giúp HCM thì HCM đã không theo Nga, Tàu, và chiến tranh Việt Nam đã không xảy ra. Đó là quan niệm sai lầm. Ông hợp tác với Mỹ là tạm thời với nhiều lí do, nhiều lợi ich cho ông.
Việc cộng tác này có lợi cho ông :
+ Ông được Mỹ viên trợ vũ khí, tiền bạc. 
+Ông  lừa bịp người quốc gia vì họ tin rằng ông là người của Mỹ, ông không phải là cộng sản.
+ Sau khi ông lập chính phủ lâm thời, không một quốc gia nào công nhận, ông ve vuốt Mỹ để Mỹ công nhận chính phủ ông. 
+Lúc này Pháp trở lại Việt Nam, ông muốn dùng tay Mỹ đánh Pháp cho ông.
+Ông muốn Mỹ viện trợ tiền bạc vũ khí cho ông để ông diệt người quốc gia.

May thay chính phủ Mỹ đã không bị HCM lừa bịp bởi vì họ biết rõ HCM là tay sai cộng sản. Nếu Mỹ lúc ấy giúp HCM thì chỉ tạo sức mạnh cho HCM tàn sát nhân dân Việt Nam như thực dân Pháp đã bắt tay với cộng sản tàn sát lực lượng quốc gia trong năm 1946. HCM đã theo Cộng sản sẽ bị tổ fchức Quốc tế III kìm kẹp, nếu phản bội thì sẽ bị trừng trị thẳng thay. Trên thế giới này, chỉ một mình Tito là có bản lĩnh chống đối Stalin mà thôi.  Việt Nam không thể thoát khỏi chiến tranh một khi mâu thuẫn ý thức hệ quốc tế còn phát triển. Hơn nữa, đã theo cộng sản vào thời cộng sản cực đoan còn thịnh trị, tinh thần chống tư bản rất mạnh, HCM  không thể  theo Mỹ. Theo Mỹ chỉ là giai đoạn. Đàng sau HCM, sức đẩy của Quốc tế III rất mạnh.
 Bất cứ thời gian, không gian và sự việc ra sao, người cộng sản bao giờ cũng có hai mặt: mặt thật và mặt nạ.  Minh Võ đã có ý kiến như sau:


Về phần Hồ Chí Minh sẽ có thái độ nào đối với Mỹ, có thực sự trở thành đồng minh của Mỹ và sẵn sàng tách khỏi khối Liên Xô không?

Sau khi Stalin tuyên bố giải tán Đệ Tam Quốc Tế, Tổng Bí Thư Trường Chinh đã đưa ra chỉ thị ngày15-7-1943: “Vô luận trong tình thế nào, những người Cộng Sản Đông Dương cũng không được sao lãng việc tuyên truyền chủ nghĩa Cộng Sản và việc phát triển tổ chức Đảng… không được hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, coi thường nhiệm vụ Đảng hoặc làm lu mờ sứ mệnh thiêng liêng của giai cấp vô sản Đông Dương”
Trong lúc Hồ Chí Minh gửi thư tỏ ý muốn kết thân với Mỹ và tuyên bố giải tán Đảng, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tiếp tục đưa ra chỉ thị ngày 25-11-1945 nêu rõ: “Kẻ thù cụ thể trước mắt lúc này là bọn phản động Pháp. Chúng chủ trương câu kết với đế quốc Mỹ và đế quốc Anh để bao vây Liên Xô”.

Đồng thời, đường lối tuyên truyền và ngoại giao của Đảng theo chỉ thị của Hồ Chí Minh là “phải lợi dụng sự mâu thuẫn của Trung Hoa – Mỹ và Anh – Đờ Gôn”. Chính vì thế, Võ Nguyên Giáp không tiếc lời xỉ vả Nguyễn Tường Tam do chủ trương tìm sự giúp đỡ từ phía Mỹ. Vào lúc Hồ Chí Minh ve vuốt các quân nhân Mỹ có mặt ở Hà Nội, gửi thư tới giới lãnh đạo Mỹ thì Võ Nguyên Giáp kết án mọi xu hướng ngả về phía Mỹ: “Những phần tử phản động của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong chính phủ liên hiệp chủ trương nên tìm chỗ dựa ở Tưởng và Mỹ. Ngày 12 tháng Ba, Nguyễn Tường Tam tới Bộ Ngoại Giao nhận chức, tuyên bố: “Trung Hoa và Mỹ có nhiệm vụ duy trì nền hòa bình ở Viễn Đông”. Y luôn luôn nhắc tới việc cần liên hệ với Mỹ, cần tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ…” 

Nguyễn Tường Tam bị kết án vì thực sự muốn kết thân với Mỹ, trong khi đảng Cộng Sản Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh luôn coi Mỹ-Anh là đế quốc thù địch với Liên Xô và chỉ muốn khai thác tình thế đương thời để lợi dụng Mỹ thôi. Ý nghĩa thực của những diễn biến trên chỉ có thể ghi nhận như thế.

Cho nên Tưởng Vĩnh Kính từng nhận định: “Hành động "liên kết với Mỹ" và "bài Hoa" của ông Hồ và Mặt Trận Việt Minh hoàn toàn đặt cơ sở trên nỗi thao thức về vấn đề sinh tồn và phát triển của bản thân họ", bởi Hồ Chí Minh luôn trung thành với điều đã ghi trong tác phẩm Con Đường Kách Mệnh: "Một là, nhiệm vụ cách mạng không phải vì một thiểu số người nào mà vì quảng đại giai cấp công nhân và quần chúng nông dân, do đó cần phải tổ chức quần chúng. Hai là, cách mạng tất yếu phải chịu sự chỉ huy của chủ nghĩa Mác Lênin. Ba là, cuộc vận động cách mạng ở mỗi quốc gia phải được kết hợp chặt chẽ với giai cấp vô sản quốc tế; công nhân và quần chúng nông dân phải phân biệt rõ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế.”

Theo Tưởng Vĩnh Kính, mục đích tối hậu của Hồ Chí Minh là đoạt chính quyền để tiến hành cách mạng vô sản quốc tế nên nỗi thao thức chính yếu lúc đó không phải vấn đề "có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không”, mà là vấn đề "bản thân Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không...”
(3)



+ Sau 1945, HCM giải tán đảng Cộng sản, đổi tên là đảng Lao Động cũng là để tránh cái tên Cộng sản đáng ghê sợ cho người Việt Nam. Đi xa hơn, ông còn nói xấu, vu vạ cho các đảng phái quốc gia chống Pháp, rồi ông bắt tay với Pháp tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Việc làm gian trá này đã khiến nhân dân VIệt Nam bất bình mà đảng viên cộng sản cũng phản đối. Ai phản đối ông sẽ sa thải hay giết hại họ.
+Với kế sách che mặt cộng sản, và hòa hoãn tạm thời, năm 1945, HCM kêu gọi đoàn kết toàn dân. Nhưng sau 1954, HCM nắm quyền nửa nước đã ra mặt cộng sản, thực thi CCRĐ và Cải Tạo Công Thương Ngjiệp và lập HTX, bắt toàn dân làm nô lệ.                                             
+ Cũng với kế sách này, HCM dựng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, dựng Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo làm phên dậu che chắn, để đem quân xâm chiếm Miền Nam. 

III. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1945 VÀ THỦ ĐOẠN CỦA HỒ CHÍ MINH


Đến đây, chúng ta thử xem lại trang sử Việt Nam từ 1945 về sau để thấy rõ âm mưu, thủ đoạn của HCM. 
1. Năm 1945, HCM cộng tác với OSS (Office of Strategic Services), và trở thành gián điệp của Mỹ,
 Cũng theo mẹo "hồ mượn oai hổ", trong bản tuyên ngôn độc lập, ông dùng câu đầu của bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ "Mọi người sinh ra đều bình đẳng (All men are created equal).và dùng ba chữ Độc lập, Tự Do, Hạnh Phúc của tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên là để che mặt thật cộng sản của ông, và cũng để lấy lòng phe Trung Hoa Quốc Dân đảng.. Đó là thủ đoạn gian xảo của HCM. Trước khi đầu hàng đồng minh, quân đội Nhật đề nghị cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim để tiêu diệt cộng sản, nhưng hoàng đế Bảo Đại đã từ chối, vì ngài biết Nhật phải đầu hàng, và không muốn bị kết tội là " cõng rắn cắn gà nhà ".  Nhiều nhân sĩ quốc gia cũng không tin HCM là Nguyễn Ái Quốc và Mặt Trận Việt Minh không phải là bộ mặt của Cộng sản, nhiều nơi đã theo cộng sản. Chính người Mỹ cũng tin HCM là người quốc gia nhưng chính phủ Mỹ thì không tin. (4)
 Trước khi qua đời, Cựu Hoàng Bảo Đại đã gián tiếp thú nhận mình lầm khi nói với một nhà báo về lý do thoái vị trao quyền cho Hồ Chí Minh như sau: “Lúc ấy tôi chỉ biết Hồ Chí Minh có chí hướng quốc gia muốn mưu tìm độc lập, thống nhất cho Việt Nam. Hồ Chí Minh được giới thiệu như người cộng tác với Đồng Minh và được đại tá Patti trong tổ chức OSS ở Vân Nam của Mỹ ủng hộ.”(5)
 2. Ngày 9-3-1945, Nhật đánh Pháp, lập Bảo Đại làm vua, Trần Trọng Kim làm thủ tướng.
-Tháng 7-1945, đồng minh giao cho quân Anh giải giới Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, còn Trung Hoa Dân quốc từ vĩ tuyến 16 trở ra. Pháp theo quân Anh trở lại Đông Dương.
-Ngày 2-9-1945, Nhật đầu hàng, HCM tuyên bố độc lập.
3. Sau khi cướp chính quyền, lập chính phủ Liên Hiệp ngày 2-9-1945,  nhưng sau đó, ngày 11-9-1945, HCM triệu tập cuộc họp trung ương đảng Cộng sản, tuyên bố đường lối độc tài đảng trị. Với đường lối tiêu diệt " tiềm lực"  này, cộng sản đã giết hại hàng trăm ngàn người.
-Ngày 13-9, quân Anh đến Saigon, còn phía bắc, 150 ngàn binh Tưởng Giới Thạch nhập địa. Trong lúc này, 1400 lính Pháp được quân Anh giải thoát từ trại giam Nhật bổn, tấn công Việt Minh. Lúc này có khoảng 20 ngàn lính Pháp tại Saigon.
-Tháng 10-1945, tướng Jacques Philippe Leclerc đếm miền Nam với 35,000 lính Pháp, du kích Việt Minh phản công nhưng bị đẩy ra khỏi Saigon.

 4 . HCM kêu gọi đoàn kết dân tộc với khẩu hiệu "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết" là giả vờ. Ông lập chính phủ Liên Hiệp là do áp lực quốc tế, và cũng là để đánh lừa các đảng phái và quốc dân. Đoàn kết, hợp tác chỉ là giai đoạn trong khi cộng sản yếu. Khi cộng sản mạnh, và sự đoàn kết không cần thiết, cộng sản sẽ hạ thủ đối phương không kịp trở tay.
  HCM lập chính phủ Liên Hiệp,  chỉ là đoàn kết tạm thời. Trong những nhân sĩ này, ta có thể chia làm ba hạng:
- Những người làm bình phong trang điểm cho chủ trương đoàn kết giả vờ của ông như Huỳnh Thúc Kháng.
-Những người thân cộng giả vờ đối lập như đảng Xã Hội của Nguyễn Xiển và đảng Dân chủ của Cù Huy Cận.
-Một số thuộc năm đảng phái, nhưng cũng chỉ ngồi làm vì.
Thực quyền trong tay cộng sản trong đó HCM và tổng bộ gồm có những người sau đây:
Hà bá Cang, nhất danh là Quận Thọt, nguời Hung Yên Nguyễn luơng Bằng, nhất danh là Sao Ðỏ, nguời Hải Duơng Bùi Lâm, nguời Trung Bộ,  Ðặng xuân Khu, người làng Hành Thiện, Nam Ðịnh, Bùi công Trừng, người Quảng Bình, Trung bộ,  Pô, người Trung Hoa, Tiêu Sung, người Nhật


Trần Trọng Kim viết: Theo chính sách của Việt Minh, lập ra một chính phủ, đem những người các đảng phái hay không đảng phái vào làm Bộ Trưởng là cốt làm cái bình phong che mắt người ngoài, chứ không có thực quyền làm được việc gì cả. Khi tôi còn ở Hà Nội, Cụ Huỳnh Thúc Kháng ra nhận chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, có đến thăm tôi. Ngồi nói chuyện, tôi hỏi: 
- Cụ nay đứng đầu một Bộ rất quan trọng trong chính phủ, chắc là bận việc lắm.
Cụ Huỳnh nói:
- Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi.
- Những khi có hội đồng chính phủ thì bàn định những gì ?
- Cũng chưa thấy có việc gì, thường thì họ đem những việc họ đã làm rồi nói cho chúng tôi biết.
Xem như thế thì các ông Bộ Truởng chỉ đứng để làm vị mà thôi, chứ không có quyền
quyết định gì cả. Có người hỏi ông Nguyễn Tường Tam rằng:
- Khi ông nhận chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao của cụ Hồ giữ trước, ông thấy có việc gì quan trọng lắm không ?
Ông trả lời:
- Tất cả giấy má trong Bộ Ngoại Giao của cụ Hồ giao lại cho tôi, tôi chỉ thấy có ba lá đơn của mấy người Sĩ Quan Tàu nhờ tìm cho mấy cái nhà, và tìm cái ví đựng tiền bị kẻ cắp lấy mất.
Câu chuyện có thể là ông Tam nói khôi hài, nhưng đủ rõ việc các ông Bộ Trưởng không có gì. Tôi đem những câu chuyện đó nói ra đây để chứng thực là các Bộ Trưởng chỉ giữ hư vị chứ không có thực quyền. Cái thực quyền trong chính phủ lúc ấy là ở mấy người như ông Hồ chí Minh, Võ nguyên Giáp và ở tổng bộ cộng sản điều khiển hết cả. ..Ðó mới thực là chính phủ, một chính phủ bí mật mà có quyền thế vô hạn.
(sđd, 35-36)

Vì thấy trước tâm địa của HCM, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh đã bỏ chính phủ Liên hiệp mà đào tị sang Trung Quốc.

5. HCM rất  tự ty nên đã tự đề cao mình qua các tác giả Trần Dân Tiên, T. Lan, Hơn nữa, HCM và đảng cộng sản đã thực hiện chủ trương  độc tài, độc đảng của Marx, Lenin nên không bao giờ chấp nhận đối lập và đa đảng như ở các nước dân chủ Âu Mỹ. HCM và đảng cộng sản ra sức tuyên truyền dối trá, đồng thời vu khống các nhà cách mạng quốc gia như ông đã vu khống nhóm đệ tứ là ăn tiền Đức quốc, và miệt thị Quốc Dân đảng, Đại Việt đảng và các nhân sĩ quốc gia trong miệng lưỡi Trần Dân Tiên:

 Ở đó nhân dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức tổng tuyển cử. Hồ Chủ tịch đã tìm ra một giải pháp: nhường cho Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam bảy mươi ghế mà chúng sẽ chia nhau hoặc bán cho người nào xuất tiền mua.
Đối với bọn này, nhân dân rất khinh bỉ. Người hỏi tại sao lại để cho những hạng người này ở trong Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam? Đây là một sự nhục nhã cho chế độ dân chủ mới v.v. Hồ Chủ tịch rất hiểu lòng tức tối của nhân dân đối với các “nghị viên” này.
Hồ Chủ tịch giải thích cho nhân dân một cách rất giản đơn. Chủ tịch nói: “Muốn giồng khoai giồng lúa, người ta phải dùng phân. Muốn đi đến dân chủ mà tất cả chúng ta đều muốn, đôi khi chúng ta phải làm những việc chúng ta không vui
  lòng làm
( HCM,XI,76) . 

Tính vu khống, xuyên tạc đó, HCM đã truyền lại cho đàn em như Hoàng Văn Hoan xuyên tạc Quốc Dân đảng trong  HỒI KÝ" Giọt Nước trong Biển Cả " của ông:
Năm 1929, Nguyễn Thế Nghiệp tranh địa vị lãnh tụ Quốc dân đảng với Nguyễn Thái Học không được, mật thám đã bố trí cho chạy qua Vân Nam. Ở đây hắn đã câu kết với một tên Việt kiều mật thám của Quốc dân đảng Trung Quốc là Nguyễn Kim Ngữ và một tên xếp-tanh tay chân của Pháp, “bí mật hoạt động” trong giới công chức Việt kiều. Năm 1930, sau khi cuộc Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Vũ Hồng Khanh lại từ trong nước chạy ra, nhập bọn với Nguyễn Thế Nghiệp. Được sự cho phép ngầm của đế quốc Pháp, và sự “giúp đỡ” của đương cục Trung Quốc, chúng đã tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng, đưa vào một số lưu manh làm cốt cán để uy hiếp và lừa dối quần chúng. Trụ sở Việt Nam Quốc đảng được lập ở nhiều nơi trong tỉnh Vân Nam. Tại Côn Minh, chúng còn có một cái hội quán, nói cho đúng là một cái ổ để cho cốt cán của chúng qua lại, còn các tên “lãnh tụ” như Nguyễn Thế Nghiệp, Vũ Hồng Khanh thì đều dựa vào sự quyên góp của kiều bào và sự tống tiền để tiêu xài một cách trụy lạc ở khách sạn.  ..(6)

Lịch sử cho biết cộng sản rất tham lam, không bao giờ đoàn kết toàn dân, không bao giờ thực thi tự do, dân chủ. Liên kết với cộng sản là làm tay sai cho cộng sản, là đi vào con đường phản dân, hại nước.


6.Vì các đảng phái quốc gia đòi hỏi dân chủ cho nên ngày 6-1-1946 HCM tổ chức bầu Quốc hội lập hiến, nhưng cộng sản thắng tuyệt đối.Bảo Đại không ứng cử mà đắc cử. Hiến pháp được thông qua ngày 9-11-1946, nội dung : đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, tôn giáo, giai cấp, tôn giáo, bảo đảm các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt cho dân, nhưng mỉa mai thay, hiến pháp ký chưa khô mực thì  ngày 14-11-1946 thì bị đình chỉ.Đó là một hành động vô cùng trắng trợn, không cần giấu diếm.

7. Tháng 2-1946, Pháp thương lượng với Tàu, và đi đến hiệp ước Trùng Khánh ngày 28/02/1946, theo đó Tàu chịu rút quân từ ngày 01 đến 15/03/1946, và chậm nhất là ngày 31/03/1946, để cho Pháp  trở lại Việt Nam. Ngược lại, Pháp trả về cho Tàu các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Tàu thiết lộ Vân Nam, sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông Dương, miễn thuế người Hoa ở Hải Phòng, và người Hoa chuyên chở hàng hoá ngang qua Bắc Việt sẽ khỏi phải chịu thuế. 

  Sau hiệp ước nầy, sáng sớm ngày 06/03/1946, sư đoàn 9 bộ binh Pháp đến Hải Phòng, dưới sự chỉ huy của trung tướng Jean Valluy.

 Túng thế, Hồ Chí Minh liền báo tin cho Pháp biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp. Vào buổi chiều cùng ngày, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, vội vàng ký thoả ước Sơ bộ với Pháp. Cùng ký bản văn nầy, ngoài Hồ Chí Minh, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng), phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội của chính phủ. Về phía chính phủ Pháp, đại diện là Jean Sainteny. 
 Việt Nam mới ký thoả ước Sơ bộ 06/03/1946 theo đó điều 1 ghi rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Hồ Chí Minh đón rước D'Argenlieu nghĩa là đón rước quốc trưởng đến thăm Hà Nội.
Việc Hồ Chí Minh ký thoả ước Sơ bộ với Pháp, chính thức hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với lời thề diệt Pháp của Hồ Chí Minh khi trình diện chính phủ vào ngày 02/09/1945, gây sự bất bình trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Nay lại đón rước D'Argenlieu đến Hà Nội và phải theo đúng nghi thức quốc gia, ít nhất phải có treo cờ chào mừng. Chắc chắn điều nầy càng gây thêm bất bình nơi quần chúng. Tuy nhiên, nhà cầm quyền VM vẫn ra lệnh treo cờ trong ba ngày 18, 19 và 20/05/1946 và loan truyền rằng treo cờ những ngày này là để mừng 19-5 là  mừng sinh nhật HCM. Đây là một sinh nhật mới được sáng tạo, bổ túc cho những số sinh nhật trước kia của HCM. Đây là một mánh khoé HCM dùng để lừa dối nhân dân Việt Nam. 

 8. Ký hiệp ước sơ bộ 6-3-1946 , và mật ước Fontainebleau  9-1946, HCM bào chữa hành động phản quốc của ông bằng luận điệu chống Tàu "Thà bị Pháp cai trị hơn là Tàu cai trị".  HCM nói dối vì ông ghét Tàu Tưởng mà rất yêu quý Tàu Mao.Trung Hoa dân quốc không có ý cai trị Việt Nam. Trong hội nghị Alta, Tưởng Giới Thạch từ chối mà rằng: " Người Việt Nam không phải là người Trung Quốc, họ luôn chống Trung Quốc". Tàu Tưởng không tham như Tàu Mao, và còn khôn hơn Tàu Mao!
 Việt Minh cho biết treo cờ không phải để chào đón đô đốc D'Argenlieu, mà để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19/5. D'Argen-lieu đến Hà Nội chiều ngày 18/05/1946. Hồ Chí Minh và D'Argenlieu gặp nhau hai lần trong hai ngày liên tiếp 19 và 20/05/1946, nhưng không đạt kết quả đáng kể.
  
 Vì hiệp định sơ bộ không kết quả, HCM và Pháp tiến đến hội nghị Đà Lạt. Hội nghị Đà Lạt còn gọi là Hội nghị trù bị Đà Lạt họp từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 12 tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, là một hội nghị dự bị, gặp gỡ giữa 2 phái đoàn Việt và Pháp chuẩn bị cho Hội nghị Fontainebleau chính thức vào tháng Bảy năm ấy.Phái đoàn có:Nguyễn Tường Tam: (1905-1963): Trưởng đoàn, Bộ trưởng ngoại giao Chính phủ Liên hiệp ; Võ Nguyên Giáp: (1912) Phó đoàn, Chủ tịch Quân ủy hội kiêm Trưởng ban quân sự Phái đoàn, Bộ trưởng Nội vụ (1946); Vũ Văn Hiền: (...-1966) Tổng thư ký phái đoàn, Luật sư, tiến sĩ.

Hội nghị Fontainebleau 1946 là đợt điều đình giữa Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đệ tứ Cộng hòa Pháp về chính thể Việt Nam. Cuộc họp này diễn ra tại Fontainebleau thuộc tỉnh Seine-et-Marne, Pháp từ ngày 6 tháng 7, 1946 cho đến trung tuần tháng 9, 1946. Đại diện cho Việt Nam là Phạm Văn Đồng còn Max André là trưởng phái đoàn Pháp. Phái đoàn Việt Nam có hai mục đích theo đuổi
  1. Độc lập chính trị, và
  2. Thống nhất đất nước.
Quan điểm của Pháp bác bỏ độc lập mà chỉ xét tự trị hay độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Hơn nữa họ đòi là phải tái lập trật tự trước tiên rồi sau đó sẽ mở cuộc trưng cầu dân ý ở Nam Kỳ về vấn đề thống nhất với Trung và Bắc Kỳ. Điểm gây nhiều khó khăn nhất là việc chính phủ Pháp đã đơn phương thành lập Nam Kỳ quốc, tách rời khu vực này khỏi những phong trào độc lập ở hai miền Bắc và Trung. Ngày 27 tháng 5 Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu lại còn thông qua việc thành lập Xứ Thượng Nam Đông Dương, chia cắt Việt Nam thành nhiều mảnh.

Việt Nam nhượng bộ trên về mọi mặt: kinh tế, tài chính và quân sự nhưng phái đoàn Việt Nam đòi Pháp ấn định thời hạn để thực hiện cuộc trưng cầu dân ý. Thấy Pháp chần chừ không trả lời dứt khoát, phái đoàn Việt Nam bỏ bàn hội nghị ra về ngày 13 tháng 9. Tuy nhiên ngay ngày hôm sau, Hồ Chí Minh ký với Bộ trưởng Bộ Pháp quốc Hải ngoại (tiếng Pháp: ministère de la France d’Outre-mer) là Marius Moutet Tạm ước Việt - Pháp 14 tháng 9, 1946 tái khẳng định nền độc lập và chủ quyền của Việt Nam. Ngoài ra Việt Nam chấp nhận:
  1. Quyền bình đẳng cho Pháp kiều ở Việt Nam cũng như Việt kiều tại Pháp,
  2. Tài sản của người Pháp bị tịch thu sẽ được hoàn trả và quyền sở hữu tôn trọng,
  3. Đồng bạc Đông Dương lệ thuộc vào đồng franc Pháp,
  4. Thiết lập hệ thống thuế quan và tự do mậu dịch cho các xứ Đông Dương,
  5. Tái lập trật tự và ngưng bắn ở Nam Kỳ, trao đổi tù binh, và ngưng tuyên truyền kích động dân chúng.(Wikipedia)
+9. HCM di dự hội nghị Fontainebleau là để lánh mặt, để trốn trách nhiệm. Trước khi đi Pháp dự Hội nghị Fontainebleau, ông sắp đặt kế hoạch cho Võ Nguyên Giáp tiêu diệt Quốc Dân Đảng và Đại Việt. Để che mắt thiên hạ, ông đưa Huỳnh Thúc Kháng làm vì ở chức vụ Bộ trưởng Nội vụ, ký giấy cho Võ Nguyên Giáp gây ra vụ tàn sát Việt Nam Quốc Dân đảng và Đại Việt Quốc Dân tại phố Ôn Như Hầu tại Hà Nội trong tháng 7-1946. Huỳnh Thúc Kháng thật thà rơi vào cái bẫy của HCM. HCM dùng tay Huỳnh Thúc Kháng để giêt các chiến sĩ quốc gia. Sau vụ Ôn Như hầu, không biết cụ Huỳnh nghĩ sao? Đó là một thâm mưu quỷ kế rất tàn độc.
 Trong tác phẩm "No More Vietnam", tổng thống Richard Nixon viết: HCM và Pháp đã bắt tay nhau sát hại hàng trăm lãnh tụ quốc gia và hàng ngàn chiến sĩ quốc gia. Pháp đã trao vũ khí cho HCM, binh sĩ và xe cộ. Tháng 7-1946, quân Việt Cộng tấn công căn cứ của phe quốc gia trong khi quân Pháp bao vây hàng ngoài. Một số lãnh tụ bị bắt, một số bị giết".(2)

10. HCM đã thực thị chuyên chính vô sản, áp dụng độc tài đảng trị khi theo Stalin giết hại các đảng viên đệ tứ Quốc tế và các đảng phái quốc gia và tôn giáo. Tuy nhiên, bề ngoài ông vẫn dùng cái vỏ quốc gia để lừa bịp nhân dân trong nước và quốc tế như ông thường tuyên bố rằng Việt cộng giương hai ngọn cờ là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Năm 1954, đánh thắng Điện Biên Phủ và được chia nửa nước, HCM liền cởi bỏ mặt nạ quốc gia, và hiện rõ chân tướng cộng sản trong CCRĐ.

Từ 1945, Cộng sản ra tay giết hại những trí thức, những ai không theo họ, hoặc những ai theo họ mà không thuộc giai cấp công nông. Chẳng hạn họ công khai  giết Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác. Họ âm thầm giết giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, Hồ Văn Ngà, Lan Khai, Trúc Khê. Trước tháng 6 năm 1946, Việt Minh không cho những người tình nghi tản cư, để rồi lợi dụng đêm Pháp tấn công, cộng sản  giết họ như trường hợp Dương Quảng Hàm. 
-Cộng sản giết hại lực lượng Quốc gia bằng cách ám sát. Cộng sản cũng giết hoặc sa thải các cán bộ thuộc thành phần tư sản và địa chủ trong CCRĐ, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, và  Tổ chức đảng. Họ theo dõi  cán bộ, bộ đội trong tổ tam tam. Cán bộ xin đi phép thường có hai anh bộ đội đi theo, nếu thấy khả nghi là hạ sát. Một số người bị cộng sản tình nghi, nhân khi Pháp đánh, họ ra tay giết để đổ tội cho Pháp như trường hợp Nguyễn Văn Tố...

Cũng có trường hợp HCM giết người bịt miệng như vụ Phạm Quỳnh. Dư luận cho rằng HCM giết Phạm Quỳnh vì Phạm Quỳnh và Nguyễn Tất Thành cùng tham gia hội Tam Điểm ở Pháp. HCM giết Nguyễn Bá Trác và Lâm Đức Thụ bị giết để bịt miệng vụ Lý Thụy bán Phan Bội Châu.
Cộng sản công khai giết Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa giáo.Tài liệu Cao Đài cho biết:
Ngay tỉnh Quảng Ngãi Miền Trung, Việt Minh cũng đã giết hại gần 3,000 Tín đồ Cao Ðài hồi tháng 8/1945 mà người chứng kiến cũng là nạn nhân trong cuộc thảm sát đó chính là Giáo Hữu Ngọc Sách Thanh [tức Cụ Lê Quang Sách] hiện còn sống và cư ngụ tại San Bernadino có đủ tài liệu chứng minh. Trong Bạch Thư gửi Ông Tổng Thư Ký LHQ Kofi Annan ngày 9/4/1999 Giáo Hữu viết: " Trong suốt 3 tuần lễ kể từ ngày 19/8/1945, chỉ riêng trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi đã có 2791 Chưc sắc, Chức việc và Tín Hữu Ðạo Cao Ðài Trung Bộ đã bị những người Cộng sản Việt Nam sát hại bằng đủ cách như chém đầu, chôn sống, thả biển trong đó có cả hình thức "tùng xẻo" như thời Trung cổ. Tại Quảng Ngãi các vị Chức sắc Cao cấp Cao Ðài như Ðức Liễu Tâm Chơn Nhơn Huỳnh Ngọc Trác, Giáo sư Lê Ðức, Giáo sư Ngọc Thành Thanh, các Giáo Hữu Nguyễn Trân, Lê Ðường, Lê Quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kỉnh, Bùi Phụng, Nguyễn Thống, Trần Lương Hiếu v.v.. đều bị giết thảm. Ở Quảng Nam Giáo sư Nguyễn Hồng Phong cùng 5 Nhân sĩ Cao Ðài khác bị giết tại Làng Bầụ!"
- Giáo Hữu Lê Quang Sách cũng cho biết sau Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954, khi Quân Ðội Quốc Gia tiếp thu Liên Khu 5, chính Hội Thánh Truyền Giáo Cao Ðài Miền Trung đã kêu gọi các Ðạo Hữu quyên góp và đã xây được một Ðài Tưởng Niệm trong tỉnh lỵ Quảng Ngãi trên khuôn viên gần 1 mẫu tây. Hằng năm ngày mùng 10/7 Âm lịch các gia đình của gần 3,000 nạn nhân đều tụ tập tại Ðài Tưởng Niệm này lập đàn trai, cầu siêu và cúng giỗ những nạn nhân do tội ác Cộng sản Việt Nam gây nên. Bất hạnh thay sau 30/4/1975, CSVN tấn chiếm VNCH, xe tăng của Việt cộng đã ủi sập mất Ðài Tưởng Niệm 3,000 vong linh Tín Ðồ Cao Ðài tỉnh Quảng Ngãi để phi tang.! Hiện chân móng Ðài Tưởng Niệm vẫn còn, tuy không có cách nào Hội Thánh Truyền Giáo Cao Ðài Miền Trung hy vọng tái xây dựng lại Ðài Tưởng Niệm này nữa, vì chắc chắn bạo quyền CSVN sẽ ngăn cản và không cho phép. Ðài Tưởng Niệm 3,000 Tín Ðồ Cao Ðài tại Quảng Ngãi bị Việt Cộng sát hại là bằng chứng tội ác tày trời của bọn ngụy quyền CSVN. 
http://www.toquocvietnam.org/VC_thamsatcactongiao.htm 

Yêu nước thì phải thương dân. Khi tàn sát nhân dân như vậy thì không phải là yêu nước. 
Giữa qưốc gia và cộng sản có hai điều khác biệt:
+Quốc gia quan niệm toàn dân đoàn kết , toàn dân tham gia công cuộc cứu quốc và kiến quốc, tôn trọng nhân quyền và dân quyền trong khi cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp, đất nước là của một đảng, một nhóm người thao túng, nhân dân là nô lệ, là kẻ thù của đảng độc tài.
+Quốc gia tôn trọng nhân bản, đạo lý, cộng sản bất nhân, bất nghĩa.  



Nói tóm lại, trước 1954, HCM ẩn nấp dưới mặt nạ quốc gia để lừa bịp quốc tế và nhân dân Việt Nam.Sách lược này, HCM cũng áp dụng khi ông cho lập MTGPMN, và đã thành công vì một số người vẫn tin Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ không phải là cộng sản.
Sau 1954, HCM tự lật mặt nạ, chưng bày mặt thật Cộng sản khi ông thực thi CCRĐ, Cải tạo công thương nghiệp, Chỉnh đốn đảng và Cải tạo tư tưởng. Nhưng khi một số biết sự thực thì đã muộn, vì vậy họ đã bỏ gia sản, quê hương và tính mệnh mà đi tìm tự do.

Nói dối thì chỉ lừa được một lần. Nhưng đối với những người quốc gia chân chính thì họ đã thấy bản lai diện mục cộng sản của HCM từ đầu. Trong khi dối trá, HCM đã tự bộc lộ mặt thật của ông vì cáo khôn ngoan nhưng vẫn để lộ đuôi chồn. Đó là trong vai Trần Dân Tiên, HCM đã kể về thành tích Xô Viết Nghệ Tĩnh của ông là đã lập được những Làng  xã Xô Viết theo kiểu Xô Viết của Liên Xô: 

“Trong thời kỳ đầu, phong trào lan rộng và ăn sâu… Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến và lập chính quyền xô viết. Họ tuyên bố độc lập và thi hành tự do dân chủ. Những ủy ban xã, ủy ban huyện được dựng nên.” 

 nhưng tiếp sang trang, HCM lại  không chịu nhận mình là cộng sản: 

“Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Đệ Tam Quốc Tế, của Liên Xô… Đế Quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô… Pháp-Nhật tuyên truyền ầm ĩ Việt Minh là cộng sản, nhận chỉ thị, tiền bạc của Mạc Tư Khoa… ”(Trần Dân Tiên, HCM X, tr.76-77). Vậy là bọn đế quốc bịa đặt hay nói thật, và HCM nói thật hay trước sau bất nhất, tự mình tố cáo cái dối trá của ông?




___
1.I don’t care what becomes of Russia. To hell with it. All this is only the road to a World Revolution. http://quotes.liberty-tree.ca/quotes_by/vladimir+ilyich+lenin
2.Quang Doãn. Tầm nhìn Hồ Chí Minh qua con mắt một nhà báo Mỹ – Kỳ 3 http://tennguoidepnhat.net/2011/09/21/t%E1%BA%A7m-nhin-h%E1%BB%93-chi-minh-qua-con-m%E1%BA%AFt-m%E1%BB%99t-nha-bao-m%E1%BB%B9-k%E1%BB%B3-3/ 
3. Hoàng Văn Hoan. sđd, ch. 
(3). Minh Võ. Hồ Chí Minh, Nhận Định Tổng Hơp, ch.50, tr.323.
(4). He makes a dozen appeals to US President Roosevelt, Secretary of State Cordell Hull, and the Senate Foreign Affairs Committee for help, insisting he is not a communist and suggesting that Indochina could be a “fertile field for American capital and enterprise.” He even mentions the possibility of allowing a US base in Camranh Bay. Likewise, US diplomats in Vietnam in their communications to Washington note that he has no direct ties to the Soviet Union and that he is a “symbol of nationalism and the struggle for freedom to the overwhelming majority of the population.  Profile: Archimedes L. A. Patti. 
http://www.historycommons.org/entity.jsp?entity=archimedes_l._a._patti 

(5). Diễn Đàn Phụ Nữ, tháng 9-1992 – Bài phỏng vấn của ký giả Phan Thế Trường. Minh Võ. sđd,  tr.320.
(6). Hoàng Văn Hoan, sđd, tập III, I. Tình hình và công tác ở Côn Minh.