Tạp chí Tuyên giáo số 11 Về tác phẩm : “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh ( 5/12/2009)
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng, Người còn là một Nhà văn hóa kiệt xuất được UNESCO vinh danh. Điểm đặc biệt là, dù không chủ tâm làm văn chương, toàn bộ tâm trí Người dành cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam và nhân loại cần lao, song cũng như nhiều anh hùng dân tộc trong lịch sử, Hồ Chí Minh “trong khi đuổi giặc vẫn làm thơ”. Những tác phẩm văn chương của Người dù được viết bằng tiếng Việt, tiếng Pháp, hay bằng chữ Hán, cũng đều “là những thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cái nhìn của một nhà thơ”.
Khác với tiếng nói lạc điệu của những kẻ phản động, những người cố chối bỏ sự thật lịch sử, phủ nhận Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) của Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù vẫn gắn với tên tuổi của Người. Là một tác phẩm thơ đặc biệt (ra đời trong hoàn cảnh Hồ Chí Minh bị tù đày), có giá trị lịch sử đặc biệt (ghi lại những tháng ngày đầy gian truân từ 29-8-1942 đến 10-9-1943, khi Hồ Chí Minh bị giải qua 13 huyện với 18 nhà lao(1) của tỉnh Quảng Tây), có một địa vị đặc biệt (bởi sau những năm tháng lưu lạc, khi được dịch và công bố), những dòng nhật ký của người tù Hồ Chí Minh năm nào đã làm “xáo trộn cả tâm hồn nhân loại” bởi những giá trị nhân văn cao quý của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng.
1. Tháng 8 năm 1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, với danh nghĩa là người đại diện của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế chống xâm lược của Việt Nam, Người lên đường sang Trung Quốc, tiếp kiến Tưởng Giới Thạch, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Trung Quốc đối với tổ chức cách mạng và cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật của nhân dân Việt Nam. Song vừa đến phố Túc Vinh, huyện Đức Bảo (nay là Thiên Bảo), Người bị lính của Trung tướng Trần Bảo Thương, chủ nhiệm Cục tình báo Trung ương đóng ở Tĩnh Tây, bắt giam, vì tình nghi Người là gián điệp.
Việc Trần Bảo Thương bắt người không được chính quyền Quảng Tây chấp nhận, và đó là lý do chính của việc Người bị giải tới giải lui qua 18 nhà lao của 13 huyện tỉnh Quảng Tây: từ Thiên Bảo đến Tĩnh Tây, từ Tĩnh Tây lại trở về Thiên Bảo, rồi đi Đồng Chính, tới Nam Ninh, tiếp đến Vũ Minh, Thiên Giang, (Lai Tân) Liễu Châu (là nơi đặt bản doanh của Đệ tứ chiến khu do Trương Phát Khuê làm tư lệnh. Nhưng Bộ Tư lệnh quân khu không phải là tòa án, nên sau khi giam mà không xử), Người lại bị giải đi tiếp Quế Lâm, và cuối cùng Hồ Chí Minh lại bị đưa về Liễu Châu.
Khi Hồ Chí Minh bị trả về Liễu Châu, cũng là lúc Hội Việt Nam Cách mạng Đồng minh đang chuẩn bị họp Đại hội toàn quốc. Lúc này, Trung Quốc cũng đang bắt tay chuẩn bị thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, nhằm đưa một tổ chức chính trị của người Việt Nam lưu vong từ Trung Quốc về khi quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương. Từ nhiều kênh thông tin, dưới nhiều áp lực và nhận thức được rằng, với uy tín của mình, Hồ Chí Minh là người có thể giúp tham gia cải tổ tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Đồng minh, nên khác với những ngày tháng bị giam cầm, bị ăn đói, mặc rét, “ghẻ lở mọc đầy thân”, và “không ngủ được”, phải “ngồi trên hố xí đợi ban mai”, ở Liễu Châu lần này, Hồ Chí Minh được thăm hỏi, được ưu đãi, từng bước nới lỏng, rồi được trả tự do. Tiếp đó, Người được mời tham gia Ban trù bị Đại hội, rồi được bầu vào Ban Chấp hành.
Nhật ký trong tù có 133 bài. Không kể bài Đề từ ở ngoài bìa không đánh số, từ bài mở đầu Khai quyển (bài 1), đến bài thứ 100 chỉ có tên bài Liễu Châu ngục (nhà ngục Liễu Châu, nhưng không có thơ), và bài Kết luận (bài 133) cùng những dòng chữ cuối cùng của bài ghi rõ “hoàn”, (29/8/1842-10/9/1943), Nhật ký trong tù là một cuốn sổ nhật ký, ghi lại những sự việc, những cảm nhận, nỗi bất bình, tâm tư bị oan ức, ý chí rèn luyện, tinh thần vượt qua mọi khó khăn, niềm hy vọng vào tương lai,v.v.. của Hồ Chí Minh những lúc nhàn rỗi, cho khuây khoả, chứ đó không phải là chủ đích sáng tác của Người, đúng như Người viết:
“Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”(2).
Là những bài thơ giản dị, phản ánh một hiện thực khắc nghiệt, nhưng Nhật ký trong tù chứa đựng bao nhiêu cái phong phú, cái lớn lao như chính cuộc đời Người. Nó góp phần làm nên “nhà thơ lỗi lạc Hồ Chí Minh” như tác giả Chiến Kỳ đã viết trong bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số 733, từ 10/5-11/5/1960. Tâm tư và nỗi “đã bực lại buồn thay” của Người khi bị oan ức “cùng là đại biểu cả, khinh trọng sao khác xa” (bài 35), khi bị giải tới, giải lui thể hiện rõ trong bài 107: “Quảng Tây đi khắp, lòng oan ức, Giải đến bao giờ, giải tới đâu?”(3) v.v... đã lắng lại để làm nổi lên chân dung một người chiến sĩ cách mạng, tâm hồn, trí tuệ của một nhà văn hoá. Hình ảnh Hồ Chí Minh toả sáng từ vẻ đẹp của những bài thơ, bởi một tâm hồn thơ, bởi sự kiên trung trong ý chí, tinh thần lạc quan cách mạng, tinh thần nhân đạo, lòng yêu nước, yêu thương con người vô bờ bến của người cộng sản Hồ Chí Minh thấm đậm ở Nhật ký trong tù.
Ra đời trong bối cảnh từ cuối 1942 đến cuối năm 1943, trước hết 133 bài thơ này không chỉ ghi lại cuộc hành trình gian khổ “Quảng Tây đi khắp mười ba huyện, Mười tám nhà lao đã trải qua” của người tù Hồ Chí Minh, mà còn “phản ảnh nhiều sự kiện chính trị thế giới, Trung Quốc và Việt Nam diễn ra trong thời kỳ đó, gắn liền với các địa danh của tỉnh Quảng Tây, với các nhân vật có họ tên cụ thể trong Bộ Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Quảng Tây,... Nhật ký trong tù còn phản ánh tâm hồn đại trí, đại nhân, đại dũng của một nhà cách mạng đã vượt lên mọi sự đày ải của kẻ thù, vượt qua mọi thử thách, giữ vững khí phách kiên cường, tinh thần lạc quan và lòng nhân ái vô song của một nhà cách mạng đối với nhân loại đau thương, bất kể họ là ai, nguồn gốc thế nào”(4).
Bản thảo Nhật ký trong tù theo ông Hồ Đức Thành (người đã gặp Hồ Chí Minh 9/1943 ở Liễu Châu với tư cách là Biện sự xứ ở Long Châu và được Người cho xem) vốn được Hồ Chí Minh viết nháp bằng bút chì, trên mép những tờ giấy báo (Liễu Châu nhật báo) cắt ra khâu lại, bên ngoài đề “Ngục trung sinh hoạt”. Sau khi được trả tự do, về sống ở trụ sở của Hội Việt Nam Cách mệnh Đồng minh (đường Ngư Phong, Liễu Châu), Hồ Chí Minh đã sửa chữa, hoàn thiện bản thảo, rồi chép lại bằng bút lông vào một cuốn sổ tay khổ 9,5cm x 12,5cm và đặt lại tên là Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù). Trong quá trình chép lại có sửa chữa vào cuốn sổ, có bài đã được Hồ Chí Minh đặt tên mà chưa kịp chép thơ (bài 100) và ngược lại có hai bài đã chép thơ mà chưa kịp đặt tên (không kể bài Đề từ ở ngoài bìa) là bài 106, 107.
Vì Nhật ký trong tù ghi lại những cảnh sinh hoạt trong tù, sự khắc nghiệt vô nhân đạo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch, nên rất cẩn thận, Hồ Chí Minh viết ở ngoài bìa lùi lại 10 năm: 29/8/1932 - 10/9/1933. Tuy nhiên, ở cuối sách, bài Kết luận (bài 133) ở trang 53 (bản gốc), trên chữ “hoàn” (hết), Hồ Chí Minh vẫn đề rõ: 29/8/1942 - 10/9/1943. Cũng theo ông Hồ Đức Thành và Lê Tùng Sơn, những người đã từng được nghe Hồ Chí Minh đọc thơ hoặc cho xem bản thảo tập Ngục trung sinh hoạt, thì sau khi Nhật ký trong tù ra công khai, “có một số câu, một số chữ ban đầu có khác với chính bản đã được tác giả sửa chữa và công bố sau này”.
2. Tháng 8-1944, Hồ Chí Minh trở về nước, bắt đầu hành trình lưu lạc và quá trình dịch, công bố tác phẩm này. Theo sách Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 2 (1930-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.220, trên đường về nước, Hồ Chí Minh “đã gửi lại một tấm chăn quân dụng và một số sách vở giấy tờ, nhờ gia đình Nông Kỳ Chấn giữ hộ”. Sau đó, trong bối cảnh bộn bề công việc, luôn phải di chuyển địa điểm, đồng thời bị kẻ địch tăng cường lùng sục, một số đồ đạc, giấy tờ, trong đó có cuốn Nhật ký trong tù của Người đã bị thất lạc.
Giữa năm 1955, Phủ Chủ tịch nhận được một phong bì không đề tên người gửi, chỉ ghi: Gửi Văn phòng Chủ tịch phủ để trình lên Bác Hồ. Sau khi nhận chiếc phong bì đó, ông Tạ Quang Chiến đã mở phong bì, và thấy có một cuốn sổ nhỏ viết bằng chữ Hán rất sạch sẽ, không có chỗ nào gạch xóa. Ông đem trình lên Bác Hồ. Nhận và xem cuốn sổ ông Chiến trình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm chặt tay ông nói: “Bác cảm ơn chú!” và dặn phải có thư cảm ơn và tặng thưởng cho người có công giữ gìn và chuyển lại tài liệu này(5).
Tháng 9-1955, một cuộc triển lãm lớn về cải cách ruộng đất đã được tổ chức tại phố Bích Câu, Hà Nội. Ngày 6-9-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm triển lãm. Nói chuyện với cán bộ, nhân viên triển lãm, Người khen triển lãm công phu, gây được ảnh hưởng tốt trong nhân dân, và hứa sẽ có quà thưởng cho Ban tổ chức. Ông Hà Văn Kỉnh - Trưởng phòng Tuyên truyền và Sưu tầm tài liệu của phòng Triển lãm cải cách ruộng đất Trung uơng được cử lên Phủ Chủ tịch nhận quà. Đó là một cuốn sổ tay gáy bọc vải đen, bìa màu xanh đã nhạt, và một tấm thẻ đại biểu (phù hiệu dự Đại hội các đoàn thể cách mạng ở hải ngoại, họp tại Liễu Châu tháng 3-1944) cũng màu xanh lam, trên có ghi tên Hồ Chí Minh bằng chữ Hán) cùng với lời dặn: “Các chú có thể dùng để trưng bày, giới thiệu cho mọi người biết, trừ hai hàng chữ nhỏ viết dọc bìa sau và hai phần ghi chép phía sau cuốn sổ”(6).
Cuốn sổ và tấm phù hiệu đã kịp thời được Ban tổ chức đem ra trưng bày ngay trong Triển lãm cải cách ruộng đất. Ngày 13-9-1955, Báo Nhân Dân đăng bài viết của Phan Quang, trong đó kể lại: “Chúng tôi có được xem cuốn sổ tay Nhật ký trong tù của Hồ Chủ tịch ghi từ ngày 29-8-1942 đến 10-9-1943 trong khi Người từ chiến khu Việt Bắc trở ra nước ngoài hoạt động và bị đế quốc giam giữ hơn một năm... Cuốn Nhật ký khổ nhỏ, giấy bản màu vàng. Trang đầu có hình vẽ hai nắm tay rắn rỏi giơ lên phá tan xiềng xích”.
Như vậy, sau một số người được nghe, được nhìn thấy Nhật ký trong tù hồi ở Liễu Châu, lần đầu tiên trong triển lãm này, nhân dân ta đã tận mắt nhìn thấy bản thảo gốc Nhật ký trong tù. Năm 1957, báo Nhân Dân lại có bài viết về Quyển Ngục trung nhật ký của Bác Hồ: “Tại phòng triển lãm những tài liệu cách mạng, có một quyển vở nhỏ bằng giấy bồi, ngoài bìa có bốn chữ Ngục trung nhật ký. Quyển nhật ký có hơn trăm bài thơ bằng chữ nho, ghi lại tình trạng Bác ở tù” và “Quyển nhật ký ấy là một đoạn trong lịch sử hơn 40 năm đấu tranh gian khổ của Bác Hồ”.
Chỉ có điều, cho đến thời điểm đó, Nhật ký trong tù vẫn chưa được dịch và giới thiệu với đông đảo người đọc.
Sau này, ông Trần Đắc Thọ cho biết: mãi đến năm 1959, ông Phạm Văn Bình, lúc đó làm Trưởng ban Giáo vụ Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, có lần đến kho lưu trữ của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (phố Phan Bội Châu, để đọc tài liệu về lịch sử Đảng), đã tình cờ tìm thấy một cuốn sổ nhỏ, đọc thấy bốn chữ Hán Ngục trung nhật ký. Xem qua và biết là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đề nghị cho mượn về để dịch. Ông Văn Phụng - cán bộ phiên dịch của Trường (đã dịch nghĩa và khiêm tốn ghi là lược dịch), và dựa vào đó ông Phạm Văn Bình (bút danh Văn Trực) đã dịch ra thơ và gửi đăng một số bài trên Văn nghệ (số 84, tháng 5-1959). Ông Bình đã đem kết quả này báo cáo lên ông Trường Chinh và ông Tố Hữu, và ngay sau đó một hội đồng dịch thuật tác phẩm Nhật ký trong tù được thành lập do ông Nam Trân, nhà thơ đồng thời là nhà Hán học uyên thâm phụ trách với sự tham gia của ông Văn Trực và nhiều người khác nữa.
Tháng 5-1960, bản dịch đầu tiên của Nhật ký trong tù đã kịp ra mắt bạn đọc rộng rãi nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với số lượng hơn 10 vạn bản. Bản dịch đầu tiên này mới chỉ chọn dịch, đưa in có 114 bài trong tổng số 133 bài của Ngục trung nhật ký, không kể bài Mới ra tù tập leo núi vốn ở ngoài 133 bài của tập Nhật ký trong tù.
Trong các lần xuất bản sau, bản dịch đã có sự chỉnh lý và bổ sung thêm. Đến cuốn Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù (Nxb. Giáo dục, 1993) thì toàn bộ 133 bài của tập Nhật ký đều đã được dịch, từ bài Đề từ không đánh số,bài Khai quyển - bài 1 đến bài Kết luận - bài 133 (tính cả bài Mới ra tù tập leo núi mới là 134 bài, vì bài Liễu Châu ngục - bài 100 trong nguyên cảo tuy có đầu đề, nhưng không có bài thơ).
Vượt không gian và thời gian, ngay từ khi mới được dịch và công bố năm 1960, Nhật ký trong tù đã được dịch và xuất bản bằng nhiều thứ tiếng. Đầu tiên là Trung Quốc đã chọn in 100 bài trong nguyên cảo, xuất bản để chào mừng kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau đó, Nhật ký trong tù đã lần lượt được dịch và xuất bản ở Nga (1960), Mông Cổ (1962), Ba Lan (1962), Pháp (1963), Hunggari (1969), Đan Mạch (1970), Mỹ (1971), Tiệp Khắc (1973), Nam Tư (1975), CHDC Đức (1976), Anh (1962 và 1972), Hàn Quốc (2007), và còn được dịch ra tiếng Nhật, tiếng Ảrập, quốc tế ngữ, v.v.. Hiện tại, trong kho cơ sở của Bảo tàng Hồ Chí Minh đã có 20 bản sách Nhật ký trong tù dịch và xuất bản ở nước ngoài.
Nhật ký trong tù là một tác phẩm văn học vô giá của Hồ Chí Minh, khi công bố đã gây tiếng vang lớn trên văn đàn quốc tế, đã chinh phục người đọc bởi những cảm xúc chân thật, chất phác, điềm đạm của một người chiến sĩ cộng sản, một nhà văn hoá lớn. Dịch giả Phan Nhuận cho rằng, ánh sáng đã phát ra từ sự đau khổ, đã tạo nên lý trí và tình cảm, đã tạo nên con người hoạt động và nhà thơ Hồ Chí Minh. Còn nhà thơ Xuân Diệu, thì khẳng định rằng: “Nhật ký trong tù đứng vô song trong văn học nước ta, vì nó là những tiếng tâm hồn của Hồ Chủ tịch”(7). Vì đó “là một ngọn đèn pha từ ngục tối của ngày xưa đã chiếu sáng cái vĩ đại của Bác Hồ ngày nay là Chủ tịch nước”, nên Nhật ký trong tù là những bài thơ đẹp nhất của một bản hùng ca, một bài thơ sống, bài thơ vĩ đại con người hành động, “đã viết bài thơ hành động, tạo nên bản hùng ca giải phóng nhân dân”(8).
Không chỉ có thế, Jean Lacouture nhận định: “Nhân cách, học vấn và số phận kỳ lạ của Cụ Hồ được thể hiện một cách khác thường trong các bài thơ ấy”(9) và Echae Secnơ (Cộng hoà dân chủ Đức) trong bài viết cho bản dịch thơ Nhật ký trong tù bằng tiếng Đức cũng nhấn mạnh: “Nhật ký trong tù là sự bộc lộ bằng văn học của một nhân vật cách mạng sống, có vốn học thức phi thường”.
Lelio Basso, Giáo sư xã hội học trường Đại học Rôma- Italia viết rằng: Viết trong lúc chờ đợi tự do, “những bài thơ trong tập Nhật ký trong tù do Người viết bằng chữ Hán trong thời kỳ này và cũng là một trong các hoạt động cách mạng hàng ngày”, và nhà thơ lớn Trung Quốc Quách Mạt Nhược khẳng định: “Một trăm bài thơ hầu hết bài nào cũng đều toát ra hết sức sinh động hình ảnh một nhà cách mạng lão thành, thanh thoát, tài trí, ung dung, giản dị, kiên cường - ấy là đồng chí Hồ Chí Minh. Thật là, “thi ư kỳ nhân” - thơ như người vậy... Có một số bài rất hay, nếu như đặt lẫn vào một tập thơ của các thi nhân Đường - Tống thì cũng khó phân biệt”.
Nhật ký trong tù gắn với hành động, tên tuổi của nhà hoạt động cách mạng và người chiến sĩ cộng sản quốc tế Hồ Chí Minh. Nhật ký trong tù là sự thể hiện một tư tưởng nhất quán trong con người Hồ Chí Minh “không tách rời thơ ca với thực tiễn cách mạng, kết hợp người chiến sĩ và nhà thơ cách mạng ở một con người” như tiến sĩ văn học Nga N.I.Niculin từng viết. Nhưng để chống lại việc UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, các thế lực chống đối Hồ Chí Minh ở nước ngoài đã thuê ông Lê Hữu Mục phá rối, viết bài phủ nhận Hồ Chí Minh là tác giả Ngục trung nhật ký. Tháng 8-1989, các bài viết ấy được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Làng văn (Canada), đến tháng 11-1990, được Văn bút hải ngoại xuất bản thành sách và giờ đây nó lại xuất hiện trong đĩa DVD: Sự thật về Hồ Chí Minh.
3. Sự thật Nhật ký trong tù là những bài thơ trong ngục của Hồ Chí Minh trong thời gian Người bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, và sự thật ấy Lê Hữu Mục đã biết. Song vì phải xuyên tạc, đổi trắng thay đen, cho nên Lê Hữu Mục đã tập hợp những điều ngụy tạo, với những lập luận vụng về, sơ đẳng khi nêu bìa sách Ngục trung nhật ký đề niên đại rõ ràng 29/8/1932 – 10/9/1933, nhưng lại gán cho Hồ Chí Minh sáng tác vào 1942-1943!
Không đọc những công trình nghiên cứu về Nhật ký trong tù, Lê Hữu Mục cho rằng vào thời gian (1932-1933), Hồ Chí Minh chưa đủ thành thạo chữ Hán để làm thơ, mà đó là của Già Lý, người từng bị giam chung với Tống Văn Sơ (tên gọi Hồ Chí Minh) trong nhà ngục Victoria ở Hồng Kông thời kỳ 1931-1933. Đặc biệt, Lê Hữu Mục và những kẻ làm phim Sự thật về Hồ Chí Minh còn cố tình căn cứ vào những tình tiết của nội dung, cách sử dụng từ ngữ, phong cách nhật ký, văn bản học... để so sánh, đối chiếu và nhấn mạnh: Ngục trung nhật ký có nhiều bài thơ đề cao sức mạnh tinh thần, tâm linh, định mệnh, v.v... trong khi đó, Hồ Chí Minh là người duy vật nên đó không phải là thơ của một người cộng sản; và trong tập thơ có một số bài thể hiện tình thương cây cỏ, loài vật... nên đó càng không phải là ngôn ngữ của người cộng sản, của nhà cách mạng lão thành.
Lê Hữu Mục bịa câu chuyện “bút đàm”, “xướng họa” trong tù giữa Hồ Chí Minh và Già Lý, từ đó thừa nhận Ngục trung nhật ký có hai tác giả: một Hoa, một Việt! Trong Ngục trung nhật ký có hai loại thơ, những bài Đường thi trữ tình, sâu sắc, đẹp, có giá trị là thơ của Già Lý, còn những bài thơ tự sự là thơ của Hồ Chí Minh. Bằng những lý giải thô thiển, đối lập máy móc tự sự với trữ tình, coi đó là hai phong cách tách rời, Lê Hữu Mục nâng Nhật ký trong tù lên thành một nghi án văn chương. Trơ trẽn hơn, ông ta còn thủ đoạn trích dẫn cắt xén, giải thích xuyên tạc bài viết của các nhà nghiên cứu có tên tuổi như Giáo sư Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Trí Viễn... để chỉ ra rằng các vị đó cũng hoài nghi, thắc mắc về Nhật ký trong tù như tâm địa u tối của ông ta.
Lê Hữu Mục đã bằng lập luận thiếu logic, dùng phương pháp văn bản học một cách nửa vời, và phương pháp nghiên cứu thiểu năng để khẳng định Ngục trung nhật ký không phải là của Hồ Chí Minh. Đó là không đối chiếu văn bản, bút tích, không so sánh về tư tưởng, ngôn ngữ, phong cách nghệ thuật, không so sánh về dấu ấn không gian, thời gian, nhân vật, sự kiện... được đề cập trong tác phẩm, mà chỉ dựa vào đôi dòng trong cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, trong đó kể rằng ở nhà ngục Victoria, nơi ông Nguyễn bị giam tại Hồng Kông, “có một tướng cướp già họ Lý giỏi chữ Trung Quốc, làm được thơ, có một cô con gái nuôi là Bành Hương” để khẳng định thơ đó là thơ của Già Lý và kêu gọi “Bành Hương hãy làm chứng cho cha!”.
Chỉ nêu ra một số sự kiện lịch sử, địa danh, khoảng thời gian và tư tưởng của Người thể hiện qua 133 bài thơ của Nhật ký trong tù cũng có thể khẳng định rằng: Nhật ký trong tù là do Hồ Chí Minh viết trong khoảng 13 tháng bị giam cầm (1942- 1943) trong nhà giam của tỉnh Quảng Tây. Còn những lập luận nguỵ tạo chỉ là sự lố bịch.
Nhật ký trong tù ghi lại hơn 13 tháng Hồ Chí Minh bị giam cầm ở Quảng Tây, phù hợp với khoảng thời gian ghi ở bài thơ cuối cùng của tập thơ: 29/8/1942- 10/9/1943. Còn ở bìa đầu sách, nhằm tránh sự phiền hà, Người đã ghi lùi lại 10 năm, 8/1932 - 9/1933, và khoảng thời gian ghi lùi lại để nghi binh này cũng là 13 tháng. Trong khi đó, ở Hồng Kông, Người bị giam gần 20 tháng (6/1931 - 1/1933), và khi Hồ Chí Minh bị giam vào ngục Victoria, Lý đã giam gần 7 năm, sau vụ giết tên cai ngục người Anh, Lý bị đưa ra toà án và chịu thêm án tù 7 năm nữa.
Nhật ký trong tù đề cập những địa danh thuộc tỉnh Quảng Tây, không phải ở Hồng Kông: Túc Vinh, Tĩnh Tây, Long Tuyền, Điền Đông, Thiên Bảo, Quả Đức, Đồng Chính, Long An, Nam Ninh, Liễu Châu, Quế Lâm v.v…“Quảng Tây đi khắp mười ba huyện”, còn ở Hồng Kông, Người chỉ bị giam ở nhà ngục Victoria.
Nhật ký trong tù đề cập những sự kiện xảy ra trong thời gian 1942-1943: (W. Willkie, đại biểu Mỹ đến Trùng Khánh; hai bài thơ gửi Nêru; câu thơ Hoàn cầu bốc lửa rực trời xanh (ý nói Đại chiến thế giới II đang diễn ra ác liệt); Trung Hoa kháng chiến 6 năm chầy (tính từ vụ Lư Cầu Kiều 9-1937 đến 1943 là 6 năm); Bọn quỷ Na-zi tội đứng đầu (nói về tội ác Đức quốc xã trong chiến tranh thế giới thứ hai)...
Nhật ký trong tù, nêu tên những nhân vật: Nêru, Dương Đào, ông Mạc, ông Quách, Hoàng Khoa Viên, Trần Khoa Viên, Trung tướng Lương Hoa Thịnh, Thiếu tướng Hầu Chí Minh,... không phải là Già Lý, không có Bành Hương, không có luật sư Lôdơby như khi ở nhà ngục Hương Cảng.
Nhật ký trong tù thể hiện khát vọng độc lập, tự do, và được thể hiện nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Thà chết không cam nô lệ mãi (Nhật ký trong tù); “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!” (19-12-1946); “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (1967), v.v..
Nhật ký trong tù thể hiện nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh: dùng văn chương làm vũ khí để chiến đấu chống kẻ thù, đó là “Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong”, và sau đó là: “Văn học nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”v.v...
Nói về Nhật ký trong tù, Giáo sư Đặng Thai Mai trong bài trả lời phỏng vấn đã nhấn mạnh, Hồ Chí Minh là người thi sĩ đầu tiên “đã đưa vào thơ chữ Hán của Việt Nam một nội dung mới... Qua tập thơ, người đọc rất dễ dàng nhận rõ tư tưởng và tình cảm của một chiến sĩ cộng sản đối với Tổ quốc và nhân dân Trung Quốc, dưới những ngày đất nước Trung Hoa còn quằn quại dưới sự thống trị của bè lũ Tưởng Giới Thạch”(12).
Và Giáo sư Hoàng Tranh - Trung Quốc, trong cuốn sách Hồ Chí Minh với Trung Quốc, Nxb. Sao mới, xuất bản 8/1990, tr.148-149 đã viết: “Các bài thơ trong ngục của Hồ Chí Minh có thể nói là tập sử thi, nó kể lại quãng đời trong ngục của Hồ Chí Minh ở các nhà giam, nhà tù chính quyền Quốc dân đảng ở Quảng Tây, phản ánh chân thực một phần bộ mặt xã hội Trung Quốc trong khoảng thời gian từ năm 1942-1943”.
Tìm hiểu lại sự ra đời, quá trình lưu lạc, dịch và công bố Nhật ký trong tù- tác phẩm thơ quý giá của Hồ Chí Minh gắn liền với 13 tháng bị giam cầm (1942-1943) ở Quảng Tây, Trung Quốc, chúng ta hiểu sâu sắc hơn những giá trị mà Hồ Chí Minh chiến đấu và hướng tới. 40 năm sau khi Hồ Chí Minh đi xa, ánh sáng trí tuệ và những phẩm cách cao quý của Hồ Chí Minh toả sáng từ Nhật ký trong tù, những nhìn nhận, đánh giá của các nhà khoa học, những người nghiên cứu, phê bình văn học trong nước và quốc tế về Nhật ký trong tù v.v... càng làm cho các thế hệ người Việt Nam cảm thấy xúc động và tự hào về người anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam như UNESCO đã vinh danh. Hồ Chí Minh là Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Đó cũng chính là sự nghiệp văn hoá, nhân văn cao cả nhất, nó đồng điệu với ánh sáng toả ra từ những hoạt động sáng tạo văn hoá, từ những bài thơ của Nhật ký trong tù ra đời cách đây gần 70 năm (1942-1943).
Chỉ ra những nghi ngờ vô căn cứ, những thủ đoạn bôi nhọ gượng ép của Tiến sĩ Lê Hữu Mục, của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, của nhóm làm phim Sự thật về Hồ Chí Minh cũng chỉ muốn khẳng định rằng, sự thật sẽ trường tồn. Sức sống bền vững của tác phẩm Nhật ký trong tù, nhân cách của Hồ Chí Minh toả ra từ tác phẩm sẽ còn đọng lại mãi trong trái tim và khối óc của những người yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý, và đó là sự tự khẳng định hùng hồn nhất trước mọi sự xuyên tạc, trước những lời ngụy tạo, những âm mưu, toan tính, dù họ mang danh là ai và có chủ đích gì./.
---------------
(1) Theo Nhật ký trong tù bản gốc và bản dịch các lần đã xuất bản 1960, 1993, 2003, trong Bài 108- Đáo đệ tứ chiến khu chính trị bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Quảng Tây giải khắp mười ba huyện, Mười tám nhà lao đã ở qua”. Còn trong Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản 1995, tập 3, trang 628, phần chú thích số 29 ghi: “Trong hơn một năm trời, Người lần lượt bị giam trong khoảng 30 nhà tù của 13 huyện ở tỉnh Quảng Tây”. Ở bài viết này, tác giả sử dụng thông tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết chính trong tác phẩm Nhật ký trong tù.
(2), (3) Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Nxb. CTQG, H, 2003, tr.85, 215
(4) ................
(5) Tuy nhiên, theo ông Trần Đắc Thọ (băng ghi âm gửi cho Bảo tàng Hồ Chí Minh): người nhận cuốn sổ tay là ông Hồ Viết Thắng, lúc đó là Phó ban Cải cách ruộng đất Trung ương, từ gia đình một đồng bào người dân tộc (chưa rõ ở Cao Bằng hay Long Châu?) chuyển đến. Chính tay ông Hồ Viết Thắng đã trực tiếp chuyển lên cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(6) Theo lời kể của ông Hà Văn Kỉnh, người nhận cuốn sổ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(7) Xuân Diệu, Yêu thơ Bác, Tạp chí Văn học, số 5/1996, 1-11
(8) Axtơrôginđô Pêrêira, Đọc Nhật ký trong tù, báo Nhân dân chủ nhật, 21-1-1962
(9) J. Lacouture, Hồ Chí Minh, Seuil, Paris, 1967, tr.62-63.
(10) Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH, H, 1979, tr.539-542
(11) Quách Mạt Nhược, Cảm tưởng sau khi đọc tập thơ Nhật ký trong tù, báo Nhân Dân, ra ngày 13-11-1960.
(12) Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Sđd, tr.342
TS. Văn Thị Thanh MaiBảo tàng Hồ Chí Minh http://tuyengiao.vn/Home/MagazineStory.aspx?mid=46&mzid=335&ID=951
| ||||||||||||||||
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/ContentDetail.aspx?id=593 |
No comments:
Post a Comment