Tư tưởng mãi mãi thời đại của
Chủ Tịch Hồ Chí MInh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết : “ Trên đời ngàn vạn điều cay đắng. Cay đắng chi bằng mất tự do”! Lời tuyên bố mang tầm vóc của một tuyên ngôn thời đại của dân tộc Việt Nam của Người : “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” cần phải hiểu cho đủ cả hai vế : Độc lập cho Tổ quốc và tự do cho Nhân dân. Mỗi một cá thể công dân sẽ làm nên nhân dân vĩ đại đó. Con người bao giờ cũng là con người cụ thể, con người này, theo cách nói của Hégel, là chị, là anh, là tôi. Cho nên, Bác nói thật giản dị : “Dân chủ, nghĩa là để cho dân mở miệng ra” "Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa." Hồ Chí Minh I. Một số lời dạy của Bác Hồ: 1. Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật. 2. Đối với người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. 3. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể. (Đường cách mệnh, 1927). 4. Những lỗi lầm chính là: - Trái phép - Cậy thế - Hủ hoá - Tư túng - Chia rẽ... - Kiêu ngạo... 5. Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm, thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa. (Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ tỉnh, huyện và làng, 17-10-1945, t. 4, tr. 57, 58) II. Về giá trị dân chủ: 1. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. (Toàn tập, ST, 1989, tập 8, trang 566) 2. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. (Toàn tập, ST, 1984, tập 4, trang 547) 3. Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. (Toàn tập, ST, 1984, tập 4, trang 35) III. Về địa vị và quyền lợi của nhân dân: 1. Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 393) 2. ...Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. (Toàn tập, ST, 1989, T10, trang 508) 3. Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do... Ðối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 482) 4. Hội hè, tín ngưỡng, báo chương, họp hành đi lại có quyền tự do. (Toàn tập, ST, 1983, T3, trang 152) 5. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 299) 6. Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 299) 7. Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. (Toàn tập, ST, 1986, tập 6, trang 286) 8. Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ,... (Toàn tập, ST, 1987, tập 7, trang 190) 9. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, ... (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 148) 10. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. (Toàn tập, ST, 1985, tập 5, trang 299) 11. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. (Toàn tập, ST, 1985, tập 5, trang 299) 12. Bao giờ ở nông thôn nông dân thật sự nắm chính quyền, nông dân được giải phóng thì mới là dân chủ thực sự. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 356) 13. Muốn nông dân có lực lượng dồi dào, thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 353) 14. Ngày nay, thanh niên là công dân của nước Việt Nam độc lập, tự do..., là người chủ tương lai của nước nhà mình. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 532) 15. Quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 482) 16. Trong trường, cần có dân chủ ... Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là "cá đối bằng đầu". (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 152) IV. Về một bộ máy nhà nước dân chủ: 1. Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ. (Toàn tập, ST, 1984, T4, trang 283) 2. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 299) 3. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đầy tớ trung thành tận tuỵ của nhân dân. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 48) 4. Ðưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. (Toàn tập, ST, 1984, T4, trang 521) 5. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta. (Toàn tập, ST, 1984, T4, trang 521) 6. Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân. (Tuyển tập, ST, 1980, T2, trang 299) 7. Nhà nước ta phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân. (Tuyển tập, ST, 1980, T7, trang 132) 8. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. (Toàn tập, ST, 1980, T1, trang 481) 9. Hiến pháp bảo đảm được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân, trên cơ cở công nông liên minh là do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nó phải thật sự bảo đảm nam nữ bình quyền và dân tộc bình đẳng, v.v.. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 594) 10. Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 121) 11. Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. (Hồ Chí Minh, Nhà nước và Pháp luật, NXB Pháp lý 1985, trang 85) 12. Cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc. (Toàn tập, ST, 1981, T2, trang 192) 13. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 50) 14. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 121) 15. Việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh. (Toàn tập, ST, 1985, T3, trang 418) 16. Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 420) 17. Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 420) 18. Muốn chống tham ô lãng phí, chống quan liêu thì phải dân chủ .. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 285) 19. Nguyên nhân bệnh ấy (quan liêu - N.K.M) là: xa nhân dân .. khinh nhân dân.. sợ nhân dân .. không tin cậy nhân dân .. không hiểu biết nhân dân.. không yêu thương nhân dân.. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 112) 20. Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ (những kẻ quan liêu - N.K.M) theo lối "quan" chủ. Miệng thì nói "phụng sự quần chúng", nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 112) 21. Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 245) 22. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 266) 23. Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 271) V. Ðảng trong sự nghiệp xây dựng nền dân chủ: 1. Tuyệt đối không được áp bức phê bình. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 510) 2. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. (Toàn tập, ST, 1980, T2, trang 210) 3. Ðảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. (Toàn tập, ST, 1984, T4, trang 463) 4. Chỉ có Ðảng chân chính cách mạng và chính quyền thật sự dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình, và kiên quyết sửa chữa. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 493) 5. Phải luôn luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải "chí công vô tư" và có tinh thần " lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". (Tuyển tập, ST, 1980, T2, trang 210) 6. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của dân. (Toàn tập, ST, 1989, T10, trang 835) 7. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. (Về Ðảng cầm quyền, ST, trang 15) 8. Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. (Toàn tập, ST, 1985, T5, trang 184) VI. Về giải pháp thực hiện dân chủ: 1. Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội hội, để nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 4) 2. Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do. (Toàn tập, ST, 1987, T7, trang 682) 3. Chế độ kinh tế và xã hội của chúng ta nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân. (Toàn tập, ST, 1989, T8, trang 566) 4. Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ .. Phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công. (Toàn tập, ST, 1986, T6, trang 271) 5. Thực hành dân chủ để là cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ, tự do. (Toàn tập, ST, 1984, T4, trang 256) Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì, chúng ta đều làm đầy tớ của nhân dân – Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi và nước mắt của nhân dân mà ra – Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân... |
https://sites.google.com/site/giadinh12b2/collection/tu-tuong-mai-mai-thoi-dai-cua-chu-tich-ho-chi-minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh – một con người, một sự nghiệp mà tên tuổi của Người gắn liền với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Tư tưởng đó đã thôi thúc nhiệt tình cháy bỏng của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, mới ngoài 20 tuổi đời đã rời quê hương thân yêu đang bị bọn thực dân phong kiến, cai trị để đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Nguyễn Ái Quốc và lớp bồi dưỡng lý luận chính trị tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Ảnh: Tuấn Anh
Ảnh: Tuấn Anh
Qua bao năm bôn ba ở nước ngoài, đi đến nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước văn minh nhất và những nước lạc hậu nhất ở châu á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ la tinh. ở đâu Hồ Chí Minh cũng thấy bộ mặt thật của bọn thực dân, đế quốc. Và Người đã rút ra kết luận, bọn thực dân, đế quốc như con đỉa hai vòi, một vòi bám vào các nước thuộc địa, một vòi bám vào chính quốc. Chúng là một bè lũ xâm lược xảo quyệt và tàn bạo. Không chỉ ở những nước thuộc địa, nhân dân bản xứ mới bị nô dịch, bị áp bức bóc lột đến tận xương tuỷ, mà ngay ở chính quốc, những người lao động và tầng lớp dưới cũng không thoát khỏi cảnh nghèo khổ, bị bần cùng hoá do chính giai cấp tư sản và bọn thực dân, đế quốc gây ra cho đồng bào mình dân tộc mình.
Trong những năm sống ở đất khách quê người, Hồ Chí Minh đã dành nhiều tâm sức cho việc học tập nghiên cứu lý luận. Người đã tìm hiểu ở những người bạn Pháp, những người cách mạng cùng chí hướng để bổ sung cho mình những nhận thức mới về những gì ẩn giấu đằng sau các từ “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” mà bọn xâm lược thường rêu rao. Trở thành đảng viên Đảng xã hội Pháp vào năm 1919, một đảng tiến bộ lúc bấy giờ và cùng với những đảng viên ưu tú của Đảng xã hội Pháp bỏ phiếu tán thành Quốc tế III – Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập, Hồ Chí Minh trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ đây, Người được trực tiếp đọc các trước tác của C. Mác Ph. ăngghen, V.I. Lênin. Được vũ trang bằng chủ nghĩa Lênin và được cổ vũ bởi Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại từ một người yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã trở thành một người cộng sản kiên cường, một lãnh tụ vĩ đại của Đảng và cách mạng Việt Nam. Người là hiện thân của tinh thần yêu nước nồng nàn, tinh thần cách mạng triệt để, vô song của nhân dân Việt Nam hơn bảy thập kỷ qua. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Lênin với tất cả những thiện cảm và tư tưởng của một người khát khao độc lập tự do cho đất nước hạnh phúc cho nhân dân. Người kể lại rằng: “Luận Cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”1
Trong những di sản mà Hồ Chi Minh để lại cho Đảng ta, cho cách mạng Việt Nam có rất nhiều tư tưởng và quan điểm mà Đảng ta đã và đang vận dụng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tư tưởng của Người là vô cùng phong phú, đề cập đến rất nhiều vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, về xây dựng đảng, về xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân… Bài viết này chỉ đề cập đến bốn tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh có giá trị lý luận và thưc tiễn đối với cách mạng Việt Nam trước đây và hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình phát triển và thắng lợi của cách mạng Việt Nam thể hiện trên những vấn đề sau.
1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Là một người yêu nước, thương dân, ngay từ thời niên thiếu Hồ Chí Minh đã chứng kiến sự ngang trái, bất công của xã hội đương thời, của bọn vua quan phong kiến và bọn thực dân, đế quốc xâm lược. Người rất đau lòng trước cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân một cổ hai tròng, không được làm người với tư cách là một con người, sản phẩm của tạo hóa sinh ra. Với tư chất thông minh lại được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, được chứng kiến cảnh khổ đau của dân tộc, Hồ Chí Minh đã nung nấu trong lòng một ý chí, một quyết tâm giải phóng dân tộc, đánh đuổi thực dân, đế quốc. Chính tư tưởng này đã đẩy chủ nghĩa yêu nước của Hồ Chí Minh lên tầm cao mới vượt khỏi Chủ nghĩa yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và các nhà yêu nước tiền bối khác. Hồ Chí Minh đã tạm gác việc nhà, hy sinh hạnh phúc gia đình để tìm đường cứu nước, cứu dân. Với một tư duy sắc sảo, có tầm nhìn xa, trông rộng, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tâm địa và bản chất của kẻ thù, đồng thời cũng biết được chỗ mạnh, chỗ yếu của chúng, biết được chí khí và sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Người nói “…chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”2. Đây là đặc điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà những người yêu nước đàn anh của Người chưa vươn tới.
Từ một người yêu nước trở thành một đảng viên cộng sản, một nhà cách mạng kiệt xuất, một chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh luôn canh cánh bên lòng nỗi yêu nước, thương dân. Người nói, chừng nào nước nhà chưa được độc lập, nhân dân chưa được tự do thì tôi ăn chưa ngon ngủ chưa yên. Bởi vậy, suốt đời Hồ Chí Minh đã đem hết tâm trí, nghị lực để đấu tranh cho sự trường tồn của dân tộc, nước nhà sạch bóng quân thù, xóa bỏ áp bức, bất công xã hội, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Khác với những nhà yêu nước khác, muốn dựa vào “lòng tốt” của tư bản nước ngoài để đòi độc lập tự do cho đất nước mình, theo kiểu “cõng rắn cắn gà nhà”, Hồ Chí Minh nhận thức một cách sâu sắc rằng muốn giành được độc lập phải dùng sức ta mà giải phóng cho ta. Người phân biệt một cách rõ ràng, bọn thực dân, đế quốc, giai cấp tư sản phản động với những người cách mạng, những người yêu nước và nhân dân lao động ở chính quốc. Do đó, một mặt phải có thái độ kiên quyết với kẻ thù, đấu tranh không khoan nhượng với chúng, không mơ hồ ảo tưởng vào những luận điệu giả nhân, giả nghĩa của chúng. Mặt khác, luôn luôn tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân loại tiến bộ trên thế giới, với phương châm thêm bạn bớt thù để làm cho sức ta ngày càng mạnh lên, đồng thời để cô lập và đánh bại kẻ thù. Rõ ràng tư tưởng cứu nước, cứu dân và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đã vượt xa tư tưởng giải phóng dân tộc của những nhà yêu nước khác. Điều này đã được lịch sử chứng minh hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng giải phóng dân tộc và con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nói, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Chính tư tưởng này đã chỉ đạo Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc đề ra chiến lược và sách lược cách mạng trong việc tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta vùng lên đấu tranh phá xích xiềng nô lệ của bọn thực dân, phong kiến, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh của một nước thuộc địa, nửa phong kiến, một nước nông nghiệp lạc hậu, nhân dân sống lầm than, khổ cực cùng với giặc ngoại xâm thì giặc đói, giặc dốt cũng đe dọa không kém. Nhưng với truyền thống quật cường của dân tộc, với tài thao lược của cha ông, được Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Lênin dẫn đường, Hồ Chí Minh đã quyết chí, bền lòng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng với một quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù phải hy sinh bao nhiêu và thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất”3 Và Người tin rằng “Ta chỉ giữ gìn non sông, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cướp nước ta, mong bắt dân ta làm nô lệ. Vậy ta là chính nghĩa, địch là tà. Chính nhất định thắng tà.”4
Hồ Chí Minh tỏ rõ thái độ và quyết tâm chống thực dân, đế quốc đến cùng để giải phóng dân tộc. Cho dù chiến tranh có thể kéo dài, nhân dân ta có thể chịu đựng nhiều hy sinh, gian khổ, nhưng chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Người kêu gọi đẩy mạnh kháng chiến với tinh thần “Chúng ta phải hy sinh, chịu khổ và phải gắng sức. Nhưng chúng ta quyết hy sinh, chịu khổ và gắng sức 5 năm, 10 năm để phá ta xiềng xích nô lệ hơn 80 năm vừa qua, để tranh lấy quyền thống nhất và độc lập cho muôn đời sau”5.
Như vậy, tư tưởng độc lập dân tộc và con đường giái phóng dân tộc cúa Hồ Chí Minh là nhất quán, trước sau như một, dù có khó khăn gian khổ đến mấy, dù có tổn thất hy sinh bao nhiêu cũng quyết tâm kháng chiến, chống thực dân, đế quốc đến cùng và phải giành cho được độc lập, tự do cho nước, cho dân và trước khi từ giã cõi đời này, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, cho thế hệ hôm nay và mai sau một bản Di chúc lịch sử, trong đó Người khẳng định: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể có kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, con nước, còn người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước ra sức đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và quyết tâm chống đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn ở miền Nam, lập nên chiến thắng vĩ đại vào mùa xuân năm 1975 lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Giương cao hai ngọn cờ: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Từ khi đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh luôn ấp ủ trong lòng mình một hoài bão là làm sao cho nước nhà được độc lập, nhân dân được ấm no hạnh phúc, mọi người trong xã hội được bình đẳng, không còn chế độ người bóc lột người. Tư tưởng đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động Cách mạng gần 60 năm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người cho rằng, độc lập rồi mà nhân dân không được ấm no hạnh phúc, không được học hành thì nền độc lập đó cũng trở nên vô nghĩa, không thực hiện được mục đích cuối cùng của cách mạng và như vậy là có tội với dân tộc. Cho nên, việc giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, không chỉ Người đã hấp thụ chủ nghĩa Mác – Lênin, được Cách mạng Tháng Mười Nga soi sáng, cổ vũ, mà với thiên tài của mình, Người đã nhìn thấy xu hướng phát triển của lịch sử, của thời đại là chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản thì mới thực hiện triệt để mục tiêu của cách mạng nước ta, nếu không thì cũng chỉ mới một nửa cách mạng.
Về lý luận và thực tiễn đã chứng minh luận điểm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, và đó là sự lựa chọn duy nhất của người cộng sản, của cách mạng vô sản ngoài ra không có con đường nào khác. Cũng phải khẳng định rằng con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hợp quy luật, hơp với tiến trình lịch sử – tự nhiên. Nhưng đây cũng là một sự lựa chọn khó khăn đối với rất nhiều nước trong thế giới đương đại. Điều này lý giải vì sao hiện nay có rất nhiều nước giành được độc lập rồi nhưng vẫn còn dừng lại ở cách mạng dân tộc, dân chủ, chưa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thậm chí có những nước đi theo xu hướng tư bản chủ nghĩa. Ngay cả Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sau khi tan rã lại quay trở lại con đường tư bản chủ nghĩa gia nhập NATO, một liên minh quân sự của các nước đế quốc mà cách đây không lâu là một đối trọng của các nước Đông Âu.
Đối với Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ đầu đã xác định rõ con đường đi của mình là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”7. Đây là một quyết định sáng suốt, dứt khoát có ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của đất nước ta, dân tộc ta. Chính nhờ giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nên sau khi giải phóng một nửa đất nước ở miền Bắc vào năm 1954 và giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975, Đảng ta chủ trương thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và 25 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước tuy còn nhiều khó khăn, thử thách lớn lao phải vượt qua, nhưng những thành tựu kinh tế – xã hội đạt được trong mấy chục năm qua nhất là 15 năm đổi mới đất nước có ý nghĩa quan trọng. Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta, đất nước ta tiếp tục phát triển đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
3. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, chống chia rẽ, bè phái
Đại đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn, thường trực trong con người Hồ Chí Minh. ở Người, hai từ Đoàn kết được vận dụng nhuần nhuyễn trong mỗi hành động, mỗi lời nói đối với mọi người ở đâu, bao giờ Người cũng luôn luôn nói đến đoàn kết nhất trí, nói đến sức mạnh của tập thể, của cộng đồng. Bởi lẽ, đó chính là nguyên nhân dẫn đến mọi thắng lợi, biến yếu thành mạnh, biến khó thành dễ. Người nói “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Chính nhờ có đoàn kết nhất trí, chung sức, chung lòng mà từ buổi bình minh của lịch sử và trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước ông cha ta đã chiến thắng biết bao kẻ thù, vượt qua biết bao gian lao thử thách để giữ cho sự phát triển vững bền của đất nước sự trường tồn của con Lạc, cháu Hồng.
Ngay trong những thời điểm kháng chiến ác liệt nhất chống kẻ thù xâm lược, Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn Đảng toàn quân toàn dân đoàn kết chống kẻ thù. Người hiệu triệu: “Trước sự xâm lược dã man đó, Chính phủ, quân đội và nhân dân ta đã đoàn kết thành một bức tường đồng, kiên quyết giữ gìn Tổ quốc”. Và “Hãy tin tưởng vào vận mệnh vẻ vang của Tổ quốc, tin tưởng vào sức mạnh đoàn kết chiến đấu của chúng ta. Chúng ta hãy cắn răng chịu đựng nền tự do muôn ngàn đời sắp tới thì cũng bỏ công. Tướng sĩ trước mặt trận, đồng bào ở hậu phương, ai nấy đều phải đoàn kết chặt chẽ, cố gắng làm đúng bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính thì cuộc trường kỳ kháng chiến của chúng ta nhất định vững vàng”8.
Hồ Chí Minh không chỉ là người thừa kế và phát triển truyền thống đoàn kết của dân tộc ta từ ngàn xưa mà Người còn là một tấm gương sáng về thực hiện đoàn kết. Nội hàm về đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng, nó bao hàm cả sự khoan dung đối với mọi người và sự đấu tranh tự phê bình và phê bình trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đoàn kết tất cả các lực lượng, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc, đoàn kết trong đảng và ngoài xã hội, đoàn kết Hồ Chí Minh và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. “Sự đoàn kết nhất trí giữa Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân ta trở thành một lực lượng vô cùng to lớn. Nó giúp ta vượt qua tất cả mọi khó khăn gian khổ. Nó rèn luyện cho chiến sĩ, cán bộ, đồng bào ta trở thành những người anh hùng. Do đó chúng ta đã đánh thắng các liên minh ghê tởm giữa thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai”.9
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đoàn kết nhất trí, làm sao cho triệu người như một, đồng tâm hiệp lực nhất hô bá ứng thì bất cứ nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trước lúc đi xa Người còn căn dặn Đảng ta “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình”.Và không chỉ thế, Hồ Chí Minh còn quan tâm đến sự đoàn kết quốc tế, đến các đảng cộng sản anh em. Người tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nhưng cũng rất đau lòng vì sự bất hòa của các đảng anh em và “mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình”.
Đối với Hồ Chí Minh chỉ có một nguyên tắc là đoàn kết nhất trí, do đó Người rất ghét những tư tưởng chia rẽ bè phái. Coi đó như một loại kẻ thù nguy hiểm cần phải chống lại, cần phải kiên quyết đấu tranh. Nếu không sẽ làm suy yếu nội bộ, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng với chế độ. Trong thực tế Đảng ta đã vận dụng đúng đắn tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh nên đã tập hợp được tất cả mọi lực lượng, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác cho đến thắng lợi hoàn toàn.
4. Tư tưởng Hồ Chi Minh về kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại
Ngay trong những ngày đầu tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy một sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam – một dân tộc anh hùng có bốn ngàn năm lịch sử, một dân tộc giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, dân tộc này vẫn ngẩng cao đầu, không chịu khuất phục trước lưỡi lê, họng súng và uy vũ của quân thù. Nhưng Hồ Chí Minh cũng tự đặt ra cho mình một câu hỏi. Vì sao, với một dân tộc anh hùng như vậy, nhưng không đánh đuổi được thực dân Pháp xâm lược, mà phải chịu 80 năm đô hộ? Phải chăng, lúc đương thời chưa có những lãnh tụ cách mạng đủ sức, đủ tầm để vạch ra đường lối đúng đắn chống thực dân, phong kiến. Phải chăng, ông cha ta chưa biết khơi dậy sức mạnh của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc? Về một khía cạnh nào đó những vấn đề nêu trên thật có lý, nhưng không hoàn toàn đúng. Bởi, ngoài những lý do đó còn có vấn đề nghệ thuật lãnh đạo cách mạng, biết đánh và biết thắng kẻ thù, biết kết hợp sức mạnh bên trong và sức mạnh bên ngoài, sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đã có công lao to lớn trong việc gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Do đó, Người chủ trương khơi dậy sức mạnh của dân tộc, động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn dân, huy động tối đa sức người, sức của vào công việc kháng chiến và kiến quốc. Mặt khác, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới, của các đảng cộng sản anh em cả về tinh thần lẫn vật chất, cả đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao làm cho kẻ thù ngày càng bị cô lập bị chia rẽ và suy yếu.
Lịch sử đấu tranh chống thực dân, đế quốc và phong kiến của nhân dân ta đã chứng minh, trong những thời điểm khó khăn, phức tạp nhất, quyết liệt nhất, nếu biết phát huy sức mạnh tổng hợp từ bên trong và bên ngoài, biết kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại thì sẽ nhân sức mạnh của cách mạng, của dân tộc lên gấp nhiều lần. Và đó là một trong những nhân tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của cách mạng, cho sự phát triển bền vững của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
TS. Phạm Hảo (Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 4(41)/2000)
hochiminhhoc.comhttp://tennguoidepnhat.net/2012/02/18/t%C6%B0-t%C6%B0%E1%BB%9Fng-h%E1%BB%93-chi-minh-v%E1%BB%9Bi-qua-trinh-phat-tri%E1%BB%83n-c%E1%BB%A7a-cach-m%E1%BA%A1ng-vi%E1%BB%87t-nam/
Tác phẩm về đạo đức cách mạng quan trọng nhất cuối đời của Bác Hồ
Hữu Thọ
40 năm trước, đúng Ngày kỷ niệm thành lập Đảng lần thứ 39 (3/2/1969), Báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng công bố bài viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh T.L. Sau tác phẩm đó, cho đến lúc từ biệt thế gian này sau đó 7 tháng, Hồ Chủ tịch còn viết một số thư, một số bài nhưng tôi nghĩ rằng đây là tác phẩm về đạo đức cách mạng quan trọng nhất cuối đời của Người.
Một tác giả đã đánh giá có phần hợp lý rằng, có thể coi tác phẩm này như một di chúc về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng với cán bộ, đảng viên. Trong Di chúc lịch sử, Người dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. Nhưng trong tác phẩm nói trên, Người nói kỹ, nói sâu sắc về đạo đức cách mạng.
Trong không khí tiếp tục cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhắc lại và cùng nhau phân tích tác phẩm quan trọng này của Người có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn, để ôn lại lời dạy của Người góp phần thúc đẩy cuộc vận động trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta làm cho Đảng ta thêm vững mạnh, xã hội thêm lành mạnh, tiếp tục công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xã hội nào cũng có cách phân định thiện – ác, tốt – xấu, vinh – nhục… Những phạm trù đó có những tiêu chí giống nhau nhưng có những khác nhau của mỗi hình thái kinh tế – xã hội, của mỗi dân tộc trong từng giai đoạn phát triển, hình thành hệ giá trị cốt lõi của văn hóa mỗi dân tộc, chủ yếu để định hướng phát triển của xã hội và là tiêu chí để bình xét, đánh giá các hiện tượng và con người.
Cùng với hệ giá trị của mỗi dân tộc, lại có chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa ràng buộc với những ai ở trong cộng đồng đó. Đạo đức cách mạng là chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng, có những tiêu chí chung và nhất quán như sự hy sinh vì lý tưởng, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần hết lòng phụng sự Tổ quốc, nhân dân… đồng thời lại có những yêu cầu riêng của từng thời kỳ cách mạng.
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Ngay trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” tập hợp những bài giảng cho lớp thanh niên tiến bộ chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Người đã đề cập các nội dung về đạo đức của người chiến sĩ cách mạng.
Khi cách mạng thành công, Đảng lãnh đạo chính quyền, đảng viên có nhiều cơ hội có địa vị, quyền hành, Hồ Chủ tịch lại đặc biệt quan tâm việc giáo dục cán bộ, đảng viên mà có tác giả nước ngoài đã đánh giá là vị lãnh tụ quan tâm nhất tới việc giáo dục đạo đức của cán bộ cầm quyền. Ngay từ rất sớm, những nhà nghiên cứu thường nhắc tới hai bức thư Người gửi cho các đồng chí Bắc Bộ, Trung Bộ khi mới trải qua hơn một năm Cách mạng Tháng Tám thành công và tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” mà chúng ta vừa kỷ niệm 50 năm ngày công bố.
Ngay từ lúc đó Người đã nhìn ra bệnh “quan cách mạng” có thể phát triển, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tránh các bệnh địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, hẹp hòi, quân phiệt quan liêu, ham chuộng hình thức, làm việc bàn giấy xa rời nhân dân, bệnh kiêu ngạo tự mãn vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa, “óc địa vị, cố tranh cho được ủy viên này, chủ tịch kia”, chỉ “lo ăn ngon mặc đẹp, lo chiếm của công làm của tư”, “giữ thói một người làm quan cả họ được nhờ, đem bà con bằng hữu đặt vào chức này, việc kia”, rồi “không phê bình giúp nhau sửa đổi, mà lại che đậy cho nhau”, làm hỏng việc của đất nước, làm mất niềm tin của nhân dân.
Theo Người, cán bộ, đảng viên phải là người vừa có đức vừa có tài nhưng đức là gốc vì “Trước mặt quần chúng, không phải ta viết lên trán hai chữ “cộng sản” mà ta được họ mến. Quần chúng chỉ yêu quý những người có tư cách, đạo đức”; “Muốn hướng dẫn quần chúng phải làm mực thước cho người ta bắt chước, hô hào nhân dân tiết kiệm thì mình phải tiết kiệm trước đã”…
Rèn luyện đạo đức cách mạng là để làm cách mạng, làm tròn nhiệm vụ nhân dân giao, để xứng đáng là công bộc của dân.
Trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, sau khi nêu rõ “thói quen và lạc hậu cũng là do kẻ địch to, nó ngấm ngầm cản trở cách mạng tiến bộ” cho nên phải đổi mới, Hồ Chủ tịch đề cập kẻ địch thứ hai là chủ nghĩa cá nhân. Tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” tập trung đề cập “kẻ thù thứ hai” mà Người cho là mẹ đẻ ra các thói hư tật xấu của cán bộ, đảng viên khi Đảng cầm quyền.
Người cho rằng, người mắc chủ nghĩa cá nhân thì “việc gì cũng nghĩ tới lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình”. Tuy nhiên, khi chỉ ra phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thì Hồ Chủ tịch lại nói: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân”, “mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với tập thể thì không phải là xấu”.
Khi nói về tác hại của chủ nghĩa cá nhân, Người nhấn mạnh: “Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh, trục lợi, tham địa vị, quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập tiến bộ… Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”.
Đọc lại những dòng viết này vào những ngày này khi liên hệ với thực tiễn, tôi có cảm giác như thấy Người đang nhìn chúng ta vừa âu yếm với tình thương bao la vừa nghiêm khắc với cháu con khi chưa làm được những điều Người dặn lại, vì Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3, khóa X (tháng 7/2006 đã đánh giá: “Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả lãnh đạo cao cấp còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức”, và chỉ rõ “Cuộc đấu tranh còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu nhiều mặt, làm giảm lòng tin của nhân dân, là một nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.
* * *
Trong cuộc đấu tranh về tư tưởng, đạo đức, lối sống, bao giờ cũng phải giải quyết mối quan hệ xây và chống, phòng ngừa và đấu tranh; về cơ bản và lâu dài thì bao giờ cũng lấy xây và phòng ngừa là chính, khuyến khích và phát huy những cái tốt đẹp để át đi cái xấu. Đó là tư tưởng xuyên suốt của Nguyễn Ái Quốc khi từ năm 1924, Người đã cho rằng một tấm gương sáng có thể có hiệu quả hơn nhiều bài diễn thuyết. Và vào cuối đời, Người trực tiếp chỉ đạo viết sách “Người tốt việc tốt” để nêu gương sáng cho mọi người cùng làm theo. Do đó, sau khi nêu lên những tác hại của chủ nghĩa cá nhân, trong tác phẩm quan trọng này Người đã nêu lên 5 giải pháp để khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Đó là:
- Phải thực hiện phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh;
- Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên;
- Phải nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt;
- Phải nghiêm minh thực hiện kỷ luật của Đảng;
- Tiến hành chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng.
Có lẽ, trong lúc này, đã qua 40 năm, đã có nhiều Nghị quyết, hướng dẫn của Đảng và Nhà nước, riêng tôi nghĩ không thấy có biện pháp nào mới hơn, chỉ có điều các biện pháp đó đều làm chưa tốt, có biện pháp làm rất ít hiệu quả, do đó các tiêu cực do chủ nghĩa cá nhân sinh ra vẫn cứ phát triển ngày một nghiêm trọng. Từ “một số ít” đến “một số”, “một số không nhỏ” mắc tiêu cực, từ chỗ chỉ là cán bộ sơ cấp, trung cấp, cán bộ thừa hành tới chỗ “không ít cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ cao cấp còn thiếu gương mẫu trong giữ gìn phẩm chất, đạo đức” như Nghị quyết Trung ương 3 đã khẳng định.
Nghe các đồng chí giúp việc Bác kể lại, đầu đề của bản thảo tác phẩm lúc đầu là “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng” nhưng khi đưa cho một số đồng chí góp ý kiến thì Bác sửa lại như đã công bố; tuy sửa lại theo ý kiến đóng góp nhưng Bác vẫn nói rằng: lúc này phải nhổ cho sạch cỏ thì cây cối mới mọc lên được.
Nghe kể lại như thế tôi lại chợt nhớ tới buổi bế mạc Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa X), trong bài phát biểu, đồng chí Tổng Bí thư đã phân tích: “Nhìn xuyên suốt cả nhiệm vụ đấu tranh thì phòng ngừa là chính. Nhưng trước tình hình bức xúc hiện nay, phải hết sức coi trọng việc kiên quyết đấu tranh, phát hiện, xử lý kịp thời, cũng là để răn đe, là một biện pháp phòng ngừa”.
Cuộc đấu tranh khắc phục chủ nghĩa cá nhân vị kỷ là một nhiệm vụ lâu dài nhưng trong tình hình hiện nay lại có ý nghĩa cấp bách, do đó tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” có ý nghĩa thực tiễn mang tính thời sự nóng hổi
Những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đối với Phụ lão
Thư gửi các vị phụ lão, ngày 21- 9-1945, sđd, t.4, tr. 24.
2. Tuổi tác càng cao, lòng yêu nước càng lớn.Càng già, càng dẻo lại càng dai,
Tinh thần gương mẫu chẳng nhường ai.
Đôn đốc con em làm nhiệm vụ,
Vuốt râu mừng xã hội tương lai.
Tuổi càng cao, lòng yêu nước càng lớn ngày 1-10-1960, sđd, t.10, tr. 213-214.
3. … Các đồng chí già là rất quý, là gương bền bỉ đấu tranh, dìu dắt, bồi dưỡng, đào tạo thêm đồng chí trẻ Đồng chí già phải giúp đỡ cho đồng chí trẻ tiến bộ. Như thế đòi hỏi ở Đồng chí già phải có thái độ độ lượng, dìu dắt đồng chí trẻ. Đó cũng là một tiêu chuẩn đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Nói chuyện với cán bộ đảng viên hoạt động lâu năm, ngày 9-12-1961, sđd, t.10, tr. 463.
quangbinh.gov.vnNhững nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đối với Phụ nữ
… Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh.
Bài nói tại Hội nghị cán bộ thảo luận Luật hôn nhân và gia đình
ngày 10-10-1959, sđd, t.9, tr 523, 524.
ngày 10-10-1959, sđd, t.9, tr 523, 524.
2. … Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội…
Bài nói chuyện tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ III
ngày 9-3-1961, sđd, t.10, tr. 296.
ngày 9-3-1961, sđd, t.10, tr. 296.
3. Phụ nữ cũng là người chủ nước nhà. Để xứng đáng là người chủ thì chị em phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm…
4. Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v… còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.
5. Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi…
6. Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được…
Nói chuyện Hội nghị cán bộ phụ nữ miền núi,
ngày 19-3-1964, sđd, t.11, tr. 215.
quangbinh.gov.vnngày 19-3-1964, sđd, t.11, tr. 215.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Vấn đề đạo đức cách mạng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán và tính lôgic cao về tinh thần cách mạng cũng như phương pháp tư duy, nhất là phương pháp tư duy khoa học, tư duy biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức của nhân loại, Người còn phát triển và sáng tạo những giá trị tư tưởng đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Tầm quan trọng của đạo đức bao giờ cũng được Người đặt ở vị trí hàng đầu. Ngay từ khi Đảng ta chưa ra đời, không phải ngẫu nhiên những bài giảng đầu tiên của Người cho thế hệ thanh niên yêu nước đầu tiên ở nước ta theo con đường cách mạng vô sản là những bài giảng về tư cách của người cách mạng. Trong trang đầu cuốn Đường Kách Mệnh – Người đã ghi 23 nét tư cách của một người cách mạng trong ứng xử với mình, với người, với đời, với việc. Đó là những chuẩn mực: “Tự mình phải:
Cần kiệm.Hòa mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cận thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng ham muốn về vật chất.
Bí mật.
Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể”[2].
Trên cơ sở nhận thức về nền tảng của việc hình thành đạo đức mới, vấn đề đạo đức cách mạng được Người nhắc lại nội dung tương tự khi nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, năm 1947, nhưng cụ thể hơn[3], gồm 5 điểm: một, Mình đối với mình; hai, Đối với đồng chí mình phải thế nào?; ba, Đối với công việc phải thế nào?; bốn, Đối với nhân dân; và năm, Đối với đoàn thể. Với những lời căn dặn này cho thấy, Người đã đặt vấn đề đạo đức cách mạng một cách rất lôgic và có cơ sở khoa học về các quan hệ lợi ích. Hầu như các nguyên tắc đạo đức Người đề ra trước hết cho mình thực hiện, sau đó mới để giáo dục người khác, có thể nêu ra một số chuẩn mực cơ bản về đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người, như sau:
1/ Nếu bài học về đạo đức cách mạng đầu tiên trong cuốn Đường Kách Mệnh, Người chỉ đề ra những nguyên lý chung thể hiện mối quan hệ giữa ba khía cạnh, phản ánh mối quan hệ đạo đức mới, đạo đức cách mạng mà người cách mạng cần quán triệt trước tiên, đồng thời nêu cao việc tu dưỡng đạo đức cách mạng; thì ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã đề ra những nguyên tắc về hành vi đạo đức cách mạng đối với người có chức, có quyền trong Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, Người đề nghị: “Mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính” để “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”.
Người coi cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người mới, đồng thời là chuẩn mực cơ bản của nền đạo đức mới của dân tộc ta. Đây là phẩm chất được Người đề cập đến nhiều nhất, thường xuyên nhất với một nội dung đạo đức mới rất cách mạng mà vẫn giữ được nền tảng của các khái niệm đạo đức cũ rất quen thuộc với mọi người. Phẩm chất này gắn liền với họat động hàng ngày của mỗi con người và có quan hệ mật thiết với tư tưởng trung với nước, hiếu với dân. Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư và ngược lại. Người có tinh thần chí công vô tư là người ham làm những việc ích nước, lợi dân, không ham địa vị, công danh, phú quý, không nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Người cho rằng những cán bộ, đảng viên có đầy đủ đức tính nêu trên sẽ đứng vững trước mọi thử thách, hơn nữa yêu cầu họ phải thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đối với người, với việc và với chính mình.
Người từng nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình đã chí công, vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ít, mà những tính tốt như sau, ngày càng thêm. Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có 5 điều: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” [4]. Có thể thấy rằng từ các khái niệm đạo đức cũ như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, Người đã đưa vào đây nội dung đạo đức mới bằng cách giải thích nó theo quan niệm mới, với một nội dung hoàn toàn khác, rất cách mạng, phản ánh các mối quan hệ một cách rõ ràng, cụ thể và dễ hiểu.
2/ Từ nội dung hẹp của các phạm trù đạo đức cũ, Người mở rộng, đưa vào đây một nội dung rất mới, tiến bộ, cách mạng, vượt qua những hạn chế của tư tưởng đạo đức truyền thống và nâng lên thành tư tưởng đạo đức mới, mà tiêu biểu nhất là các khái niệm: trung, hiếu, nhân, nghĩa… “Từ trung với vua thành trung với nước; từ hiếu với cha mẹ mình thành hiếu với dân; từ nhân chỉ là nhân ái thành nhân dân, từ cần cho riêng mình thành cần cho cả xã hội; từ kiệm cho riêng mình thành tiết kiệm chung phục vụ cho đất nước; từ liêm nghĩa là liêm khiết, không tham nhũng, nghĩa là chỉ giữ cho bản thân mình trong sạch, Người mở rộng thành vấn đề liêm khiết mang tính xã hội; từ chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn, Người chuyển sang vấn đề thiện, ác; làm việc chính, là người thiện; làm việc tà là người ác”[5]. Người nhấn mạnh: “Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải trái, giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[6]. Trung vơí nước, hiếu với dân được coi là nội dung cơ bản nhất, bao trùm nhất trong tư tưởng đạo đức cách mạng của Người, thể hiện mối quan hệ giữa con người với Tổ quốc và nhân dân. “Trung với nước” là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc, nước ở đây là nước của dân, dân là chủ nhân của đất nước. Người cho rằng bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Xuất phát từ quan niệm như vậy, nên “hiếu” trong tư tưởng của Người chính là “Hiếu với dân”. Hiếu với dân không chỉ là xem người dân như đối tượng dạy dỗ, ban ơn mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Ở người, lý luận luôn gắn chặt với thực tiễn, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Cuộc đời của Người là minh chứng sinh động về tư tưởng tận trung với nước, tận hiếu với dân.
3/ Nếu như trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất của mỗi con người – công dân đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, thì yêu thương con người là trách nhiệm của mỗi con người đối với con người. Người cho đây là phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Yêu thương con người trước hết là tình cảm dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ. Yêu thương con người còn được thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với những người đồng chí xung quanh, trong cuộc sống bình thường. Phải luôn nghiêm khắc với bản thân, nhưng rộng rãi độ lượng với ngươì khác. Điều đặc biệt là ở Người, yêu thương con người luôn luôn gắn với niềm tin vào con người, tin vào lương tri, tin vào lòng dũng cảm, tin vào sức sáng tạo của họ trong hành trình con người tự giải phóng lấy mình, để con người làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình.
4/ Người đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cá nhân và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa truyền thống và hiện đại tạo ra trong quan niệm về đạo đức cách mạng sự hài hòa về các mối quan hệ lợi ích. Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng thực chất là chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người cho rằng nếu tinh thần yêu nước không chân chính, tinh thần quốc tế không trong sáng thì có thể dẫn tới tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, hẹp hòi, sô vanh, biệt lập, kỳ thị chủng tộc. Từ rất sớm, Người đã chủ trương quan hệ với các quốc gia dân tộc và các tổ chức trên thế giới để thêm bạn, bớt thù. Quan điểm dân tộc đã được thổi vào thời đại, đã vượt qua biên giới quốc gia, hướng tới mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Cần nhấn mạnh là tuy có những cách định nghĩa khác nhau về nội hàm các khái niệm đạo đức cách mạng, nhưng nhìn chung ở Người đều có sự nhất quán về tinh thần cách mạng và phương pháp tư duy. Từ các khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, đến cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; từ trung, hiếu, đến thiện, ác… bao giờ Người cũng có cách giải thích riêng về những chuẩn mực đạo đức phù hợp dễ hiểu, dễ chấp nhận với từng đối tượng, với mọi tầng lớp nhân dân: trí thức, quân đội, công an, công nhân, nông dân, phụ nữ, phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng… Đề cao đạo đức mới, Người đã thể hiện một tầm nhìn xa trông rộng về nhân cách con người. Những phẩm chất mà Người nêu ra là nhằm hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái cao cả, đồng thời ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện thoái hóa, biến chất có thể xảy ra, đặc biệt là chống khuynh hướng lạm dụng quyền lực để tham nhũng, lãng phí. Ngay cả trước khi qua đời, việc đầu tiên được đề cập đến trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân là nói về Đảng, việc đầu tiên khi đề cập đến Đảng là đạo đức, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[7].
Tóm lại, từ bài viết đầu tiên trong tác phẩm Đường Kách Mệnh đến bản Di chúc cuối cùng, dù ở những thời điểm lịch sử khác nhau nhưng tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng đều có sức thuyết phục rất cao, có sức sống mạnh mẽ và có giá trị lâu bền. Bởi đó là sự thống nhất giữa lời nói, tư tưởng và hành động. Người đặt vấn đề đạo đức cách mạng từ lĩnh vực lý luận sang lĩnh vực thực tiễn, đưa đạo đức cách mạng vào chính sự nghiệp cách mạng, coi đó là một trong những nguyên tắc hoạt động cách mạng, phản ảnh các quan hệ mới về lợi ích tạo ra nền tảng vững chắc của chính quyền cách mạng nói chung và người cách mạng nói riêng.
——————————————–
[1] Đường Kách Mệnh, xuất bản năm 1927 – đây là một tác phẩm lý luận và chính trị vô cùng quan trọng, gồm những đề cương bài giảng của Nguyễn Ái Quốc, tức Chủ tịch Hồ Chí Minh giảng cho các lớp huấn luyện chính trị được tổ chức bí mật ở Quảng Châu, Trung Quốc từ đầu năm 1925 nhằm đào tạo cán bộ cách mạng nước ta, chuẩn bị về tư tưởng, đường lối và tổ chức cho việc thành lập một chính đảng mác xít của giai cấp công nhân Việt Nam.
[2] Nguyễn Ái Quốc. Đường Cách Mệnh. Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1982, tr..22-23.
[3] Xem thêm: Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 54-55.
[4] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. Sđd, tr. 251.
[5] Thành Duy, Văn hóa đạo đức: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2004, tr. 35.
[6] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 480.
[7] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 12, Sđd, tr. 510.
cpv.org.vn[2] Nguyễn Ái Quốc. Đường Cách Mệnh. Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1982, tr..22-23.
[3] Xem thêm: Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 54-55.
[4] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. Sđd, tr. 251.
[5] Thành Duy, Văn hóa đạo đức: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2004, tr. 35.
[6] Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 480.
[7] Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 12, Sđd, tr. 510.
Di sản Hồ Chí Minh về Đạo đức
| |||||||||||||||
|
No comments:
Post a Comment