HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

Sunday, June 17, 2012

CVI *NHIỀU TÁC GIA * TỐ CÁO



 BA SÀM

Con ngựa hoang

Mặc dù không có những ghi chép chính xác về các hoạt động của Thành sau khi rời Việt nam, những bằng chứng thu thập được cho phép dự đoán rằng phần lớn thời gian của Thành dành cho việc lang thang trên biển và đi qua khắp 5 châu. Vào thời đó, chế độ thực dân châu Âu đã thuộc địa hóa hầu như cả thế giới. Trên các bến cảng Á, Phi, Mỹ la tinh, những người dân bản xứ xun xoe thoả mãn nhu cầu của các ông chủ da trắng. Trong các tác phẩm sau này, HCM đã miêu tả sự tàn bạo của các ông chủ và sự khốn cùng của dân lao động một cách hết sức ấn tượng. Có thể phần lớn các quan điểm cách mạng của HCM đã được hình thành trong giai đoạn này. 
Tàu LT là một tàu nhỏ đối với các tàu vượt đại dương, dài khoảng 400 fut và có trọng tải nhỏ hơn 6000 tấn. Vì thế cuộc sống của Thành trên tàu hết sức vất vả. Tuy nhiên anh vẫn nhìn đời một cách hóm hỉnh: “nhân vật của chúng ta vừa huýt sáo vừa chùi toa lét và đổ rác“. Một trong những đối thủ chính trị của HCM sau này, ông Bùi Quang Chiêu đã tình cờ gặp Thành trong chuyến đi. Ông lấy làm kinh ngạc sao một người thông minh như Thành lại chấp nhận một thứ lao động khổ sai như vậy. Thành chỉ cười và nói, anh cần đi đến Pháp để đòi sửa lại bản án cho cha. 1
LT cập bến Marseilles ngày 6 tháng bảy năm 1911 sau khi đã qua Singapore, Colombo và Port Said. Thành nhận được những đồng lương đầu tiên khoảng 10 frances. Chừng đó chỉ đú cho vài ngày trên bờ, nhưng Thành đã có thể dừng bước uống cafe trên đường Cannebiere, để được gọi bằng “Ngài”. Thành ngạc nhiên kết luận: “Người Pháp ở Pháp tốt hơn và lịch sự hơn người Pháp ở Đông dương”. Sau khi tìm hiểu các hang cùng, ngõ hẻm, gặp gỡ đủ các loại đĩ bợm ở đây, Thành tự hỏi, tại sao người Pháp lại không khai hoá văn mình cho đồng bào chính quốc trước.
Thành quay lại tàu trước khi nó nhổ neo và đến Le Havre ngày 15 tháng 7. Sau đó LT giong buồm đi Dunkirk, rồi quay về Marseilles và neo ở đó đến giữa tháng 9. Từ đó, Thành đã viết một bức thư gửi thẳng cho tổng thống Pháp. Quả là một sự kiện gây tò mò, và đáng để in toàn văn bức thư ở đây:
Marseilles 15 tháng 9 năm 1911 Thưa ngàI Tổng thống!
Tôi rất rất lấy làm vinh dự được nhờ ngài một việc nhỏ để có thể được vào học tại trường Thuộc địa như một sinh viên thực tập.
Hiện tại, để kiếm sống, tôi đang phải làm việc tại hãng Chargeurs Réunis (tàu đô đốc LT). Tôi đang bị bỏ rơi và rất muốn có được một nền giáo dục đầy đủ. Tôi muốn trở thành có ích cho nước Pháp về vấn đề các đồng bào của tôi, và giúp họ có thể được hưởng những thành quả của giáo dục.
Tôi sinh tại tỉnh Nghệan thuộc Annam
Vô cùng biết ơn Ngài Tổng thống đã ra tay cứu giúp
Nguyễn Tất Thành Sinh năm 1892 Con ông Nguyễn Sinh Huy (Tiến sĩ) Sinh viên Pháp ngữ và Hán ngữ
Trường Thuộc địa được thành lập năm 1885 nhằm mục đích đào tạo nhân viên cho bộ máy cai trị của Pháp tại thuộc địa, có khoảng 20 học bổng cho các sinh viên từ Đông Dương. Một số nhà nghiên cứu tỏ ra ngạc nhiên về quyết định xin học của Thành, họ cho rằng có thể lúc đó Thành đã từ bỏ giấc mộng ái quốc để đeo đuổi con đường công chức. Tuy nhiên, thực ra quyết định này chẳng có gì khác với việc gia nhập Quốc học Huế. Rõ ràng là Thành chưa quyết định được mình sẽ phải chọn con đường nào để cứu nước. Và điều có ích nhất bây giờ là tiếp tục sự nghiệp học hành. Trong bức thư viết cho chị cậu mùa hè năm 1911, Thành cũng đã nói với chị là sẽ đi học tại Pháp khoảng 5-6 năm. Cũng có thể đây chỉ là một động tác “qua người” đẹp mắt, mà sau này HCM cũng đã nhiều lần sử dụng, nguỵ trang cho ý đồ đích thực của mình nhằm đạt được mục đích cuối cùng 2. Từ Marseilles, tàu LT về Việt nam và cập bến Sài gòn vào khoảng giữa tháng 10. Thành rời tàu và tìm cách gặp cha. Từ khi mất việc, Sắc lang thang bán thuốc nam và dạy học trong khắp Nam bộ. Thậm chí có lần còn bị bắt vì say rượu. Mặc dù rất có thể trong khoảng thời gian đó, ông đang ở loang quanh Sài gòn, nhưng không có bằng chứng là hai cha con đã gặp nhau. Ngày 31/10/1911, Thành viết một lá thư cho Toàn quyền Pháp tại Annam, giải thích về việc cha con chia cách đã 2 năm và nhờ chuyển cho cha một khoản tiền nhỏ nhưng không được trả lời 3.
Quay trở lại Marseilles, Thành nhận được tin là đơn xin học của mình đã bị từ chối. Nhà trường chỉ nhận những học sinh được toàn quyền Đông Dương giới thiệu. Khi tàu được đưa lên bờ sửa chữa tại Le Havre, Thành quyết định ở lại. Anh xin vào làm vườn cho một chủ tàu ở Sainte-Addresse, một khu nghỉ mát đã nổi tiếng nhờ những bức tranh mà Monet vẽ tại đây. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi anh lang thang trong thư viện của ông chủ hoặc luyện tiếng Pháp với con gái ông chủ. Có thể là Thành đã đi Paris gặp Phan Chu Trinh trong thời gian này. (Theo một số nguồn tin, ông Sắc đã viết cho Thành một thư giới thiệu cho Trinh khi cậu rời Việt nam). Nếu họ gặp nhau, chắc chắn chủ đề sôi nổi nhất là cuộc cách mạng dân quyền của Trần Dân Tiên lật đổ triều đình nhà Thanh để thành lập một nước cộng hoà kiểu phương Tây.
Thành có quan hệ rất tốt với chủ nhà, và chính ông này đã giới thiệu cậu cho một con tàu đi châu Phi cũng của hãng Chargeurs Reunis. Mặc dù nhiều người ngăn cản, Thành vẫn quyết chí ra đi. Anh đã đến một loạt các nước Á-Phi, bao gồm Algeria, Tunisia, Morroco, India, Indochina, Saudi Arabia, Senegal, Sudan, Dahomey và Madagascar. Anh bị mê hoặc bởi những điều nghe được, học được. Những cảnh tượng kinh hoàng của chế độ thuộc địa cũng gây cho anh những xúc động sâu sắc. “Đối với bọn thực dân, tính mạng những người dân thuộc địa không đáng 1 đồng xu.”
Trong những năm đó, Thành đã đến nhiều hải cảng trên Tây bán cầu. Sau này, HCM đã kể lại cho những người bạn Cuba của mình rằng ông đã đến Rio và Buenos Aires. Con tàu của anh cũng đã ghé qua bờ Đông nước Mỹ, và Thành đã chọn NewYork làm nơi dừng chân của mình. Anh rời tàu và quyết định tìm việc để ở lại nước Mỹ. Giai đoạn này là một trong những giai đoạn mù mờ nhất trong cuộc đời HCM. Theo lời ông và một số người quen biết khác, anh đã làm đầy tớ cho một gia đình giàu có ở NY với mức lương “trên trời” là $40/tháng. Ngoài giờ làm việc, Thành lang thang với bạn trong khu China town, ngửa cổ ngắm những toà nhà chọc trời NewYork, tham dự các cuộc họp của hội da đen Harlem, và ngạc nhiên khi thấy pháp luật công nhận sự bình đẳng của những kẻ nhập cư châu Á. Sau này, một đoàn đại biểu các nhà hoạt động hoà bình Mỹ đã hỏi HCM: tại sao ông lại đến nước Mỹ? HCM đã trả lời, ông nghĩ là nước Mỹ là biểu tượng chống chủ nghĩa thực dân châu Âu và sẽ giúp Việt nam giành độc lập. Nhưng ông đã nhầm.
HCM còn nói là ông đã từng sống ở Boston và làm bánh ngọt cho khách sạn Parker House. Ông cũng đã đi thăm một số bang miền Nam để chứng kiến cảnh bọn 3K hành hình người da đen mà sau này ông đã miêu tả rất sống động trong một truyện ngắn viết khi đang ở Nga những năm 1920. Rất tiếc là chỉ có ít bằng chứng rõ ràng về việc HCM đã từng ở nước Mỹ. Một là bức thư ký tên là Paul Tất Thành gửi cho toàn quyền Pháp xin phục hồi cho cha anh. Bức thư đóng dấu NY ngày 15/12/1912. Thứ hai là tấm bưu thiếp gửi Phan Chu Trinh từ Boston, kể rằng anh đang phụ bếp tại khách sạn Parker House 4 HCM nói với một nhà báo Mỹ, bà Anna Louise Strong rằng quãng thời gian ở Mỹ ảnh hưởng rất ít đến quan điểm chính trị của ông vì lúc đó ông còn quá trẻ. Nhiều khả năng là HCM rời Mỹ vào năm 1913. Sau chặng dừng chân ở Le Harve, anh đến Anh để học tiếng Anh. Trong một bức thư gửi Phan Chu Trinh, anh nói rằng đã ở London bốn tháng rưỡi để học tiếng Anh và giao lưu với người nước ngoài. Bức thư chắc phải được viết trước khi nổ ra đại chiến thế giới I, tháng 8 năm 1914, vì Thành còn hỏi PCT sẽ đi nghỉ hè ở đâu. Bức thư thứ hai cho PCT, Thành đã bình luận về sự khởi đầu của chiến tranh. Anh cho rằng những kẻ dây vào sẽ phải lãnh đủ, anh chờ đợi những sự thay đổi lớn ở châu Á và hy vọng chiến tranh sẽ làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của Pháp.
Trong hồi ký của mình HCM đã thừa nhận những công việc rất cực nhọc của ông ở Anh như quét tuyết và đốt lò. Một vài người quen khi gặp Thành ở Pháp đã nhận thấy bàn tay của anh bị cái lạnh làm cho cong queo. Cũng may là sau đó anh tìm được một chân phụ bếp trong khách sạn Drayton Court rồi chuyển đến Carton giúp việc cho đầu bếp nổi tiếng Auguste Escoffier và ông đã từ chối cơ hội để trở thành đầu bếp.
Ngoài việc lang thang ở Hayden Park với cây bút chì và quyển sách để học tiếng Anh, Thành còn tham gia vào các hoạt động chính trị của Hội công nhân hải ngoại, tham gia vào các cuộc biểu tình đòi độc lập của người Ailen. Có thể là trong thời gian này Thành đã lần đầu tiên làm quen với các tác phẩm của Karl Max. Anh vẫn không quên nỗi đau mất nước. Trong một bức thư gửi PCT, Thành đã viết những câu thơ:
Đương đầu với trời đất
Thôi thúc bởi ý chí
Người anh hùng phải chiến đấu cho đồng bào
Có một điều Thành không biết là các bức thư của anh gửi cho PCT đều rơi vào tay mật thám Pháp. Trong khi khám xét căn hộ của PCT, chúng đã phát hiện ra những bức thư ký tên N. Tất Thành gửi từ số 8, Stephen Street, Tottenham Court Road, London. Trong một bức thư, người thanh niên này còn thề thốt là sẽ tiếp tục sự nghiệp của PCT. Cảnh sát Pháp đã nhờ các đồng nghiệp Anh tìm kiếm nhưng chẳng thấy ai ở địa chỉ đó. Cảnh sát Anh lục khắp London được 2 sinh viên Việt nam tên là Thành, trong đó có một Nguyễn Tất Thành, nhưng họ chẳng có dính líu gì đến chính trị.
Không có nhiều tài liệu minh chứng cho hoạt động của HCM ở Anh. Một số nhà sử học thậm chí nghi ngờ ông đã ở Anh. Họ cho rằng ông đã bịa ra giai đoạn đó để có được tấm áo xuất thân vô sản. Điều này hơi vô lý vì HCM chẳng bao giờ phủ nhận nguồn gốc nhà nho của mình 5. Tuy nhiên có nhiều chứng cớ khằng định được HCM đã ở London 6. Thời điểm chính xác Thành quay về Pháp cũng gây nhiều tranh cãi. ít nhất là chính quyền Pháp cũng không biết gì về chuyện này cho đến khi có một sự kiện làm cho Thành trở thành người Việt nam yêu nước nổi tiếng nhất ở đất nước mình. HCM viết rằng, ông đã quay về Pháp khi chiến tranh còn đang xảy ra. Một số người quen cũ của ông ở Pari cho rằng ông đến Pháp năm 1917 hoặc 1918. Viên mật vụ được phân công theo dõi ông vào năm 1919 báo cáo rằng HCM đã “ở Pháp từ lâu”. Nhiều nguồn cho rằng đó là khoảng tháng 12/1917.
Lý do Thành về Pháp có thể dễ hiểu. Sau chiến tranh, số người Việt nam tại Pháp đã tăng lên gấp bội so với trước đó. Hàng ngàn người Việt nam làm việc tại các công xưởng, tham gia quân đội so với không đến 100 người trước chiến tranh. Qua mối quan hệ đã sẵn có với Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường, Thành có thể thâm nhập vào cộng đồng chính trị Việt nam hải ngoại nhằm mưu đồ cứu nước. Trinh đang được coi là lãnh tụ của phong trào, nhưng sau khi bị bắt vì nghi ngờ phản bội hồi đầu chiến tranh, Trinh trở nên rất thận trọng.
Sau khi về Paris, Thành nhanh chóng tham gia vào các hoạt động kích động công nhân Việt nam trong bối cảnh các cuộc chống đối ở Pháp ngày một nhiều do sự kéo dài khốc liệt của chiến tranh. Cũng chưa rõ, làm thế nào Thành có thể tham gia vào các hoạt động đó. Có thể với tư cách của Hội công nhân hải ngoại? Cũng có thể là quan hệ trực tiếp với các nhà hoạt động cánh tả.
Một nhà hoạt động cách mạng, Boris Souvarine, sau này trở thành sử gia nhớ lại đã từng gặp Thành ngay sau khi anh từ London trở về. Ông cho rằng đó là vào khoảng năm 1917. Thành thuê 1 căn hộ dơ dáy tại Montmartre và tham gia sinh hoạt với chi bộ đảng Xã hội Pháp tại đó. Souvarine đã giới thiệu Thành với Leo Poldes, người sáng lập câu lạc bộ Faubourg. Các buổi nói chuyện diễn ra thường xuyên về tất cả các chủ đề từ chính trị tới những điều huyền bí. Souvarine nhớ lại là Thành rất bẽn lẽn, thậm chí khúm núm, nhưng hoà nhã và ham học. Mọi người còn gọi anh là “Người câm ở Montmartre” 7. Leo Poldes là người đã rèn luyện tính nhút nhát của Thành bằng cách bắt anh phát biểu trước cử toạ. Trong bài phát biểu đầu tiên của mình miêu tả sự thống khổ của nhân dân thuộc địa, Thành thậm chí còn nói lắp. Không mấy người trong cử toạ hiểu, nhưng họ thông cảm với chủ đề và Thành được hoan hô nhiệt liệt. Sau đó Thành được mời phát biểu thường xuyên
Trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà văn Mỹ Stanley Karnow, Leo đã nhận xét về Thành trong thời gian anh tham gia câu lạc bộ Faubourg: “có hơi hướng của Chapline, hài hước nhưng buồn, vous savez“ 8. Leo đặc biệt có ấn tượng về đôi mắt sáng và lòng ham mê học hỏi của Thành. Anh đã vượt qua được nỗi sợ hãi phải phát biểu trước công chúng và tích cực tham gia vào các cuộc tranh luận. Qua đó Thành quen biết những nhân vật nổi tiếng trong giới trí thức cách mạng Pháp: nhà văn xã hội Paul Louis, nhà quân sự Jacque Doriot, tiểu thuyết gia Henri Barbeusse với những tác phẩm miêu tả sự cùng cực của binh lính trên mặt trận.
Đã gần 30 tuổi, và hầu như kinh nghiệm nghề nghiệp chỉ loanh quanh mấy việc phụ bếp hoặc dạy học, lại không có giấy phép làm việc Thành không thể xin được việc ổn định. Anh phải làm đủ việc từ bán món ăn Việt nam, kẻ bảng hiệu, dạy chữ Hán, làm nến… Cuối cùng anh kiếm được một chân tô màu ảnh đen trắng trong một hiệu ảnh của Phan Chu Trinh. Vào những thời gian rỗi Thành hay ngồi lì trong thư viện và đọc các tác phẩm của Secxpia, Tolxtoi, Lỗ Tấn, Hugo, Zola, Dickens. Gia tài của anh chỉ có cái va li và thường xuyên chuyển chỗ trong những nhà trọ chật hẹp của khu công nhân Paris 9 Thủ đô của nước Pháp cuối chiến tranh vẫn tham vọng trở thành trung tâm chính trị và văn hoá của thế giới phương Tây. Rất nhiều những nhà tư tưởng lỗi lạc của thế kỷ 19 đã sống ở Paris. Không khí cách mạng càng sục sôi trong giai đoạn cuối chiến tranh, khi sự tàn bạo của cuộc chiến đổ thêm dầu vào phong trào chống chủ nghĩa tư bản. Việt nam chiếm số lượng lớn nhất trong cộng đồng hải ngoại tại Paris thời điểm đó: khoảng 50000 người, trong đó có hàng trăm con em trí thức. Trong bầu không khí bị chính trị hoá cao độ, lớp sinh viên này đã hoàn toàn chín muồi cho những hoạt động chính trị hướng tới độc lập dân tộc. Rất tiếc là chẳng có gì xảy ra cả. Trong giới có ảnh hưởng, một số muốn mặc cả với Pháp cho thêm quyền tự chủ đổi lấy việc đã tham gia bảo vệ mẫu quốc trong chiến tranh, một số thì lại bí mật đi đêm với Đức để hy vọng Pháp thua trận. Theo cảnh sát Pháp, Phan Chu Trinh và bạn ông là Phan Văn Trường đã thử cả hai phương án này. (Phan Văn Trường sinh năm 1878 tại Hà đông, học luật và trở thành công dân Pháp năm 1910). Cả hai đã thành lập “Hội đồng thân ái” trước khi chiến tranh xảy ra, nhưng chỉ thu thập được khoảng 20 chục thành viên. Trinh, được coi là nhà ý tưởng, tỏ ra rất ít có khả năng tổ chức. Tuy nhiên, do có tin đồn về việc họ đang dự kiến lật đổ chính quyền tại Đông dương, cả hai đã bị tạm giam ngay sau khi chiến tranh nổ ra. Chính vì lý do đó mà những bức thư Thành gửi cho Trinh đều rơi vào tay cảnh sát Pháp. Sau khi được tha, Trường và Trinh không dám nghĩ đến chuyện thách thức chế độ thực dân nữa. Cộng đồng Việt nam hải ngoại thực sự đình trệ về mặt chính trị. Thành muốn nhanh chóng thay đổi tình hình đó. Mặc dù, cho đến lúc đó thành tích chính trị của anh mới chỉ là phiên dịch cho cuộc biểu tình tại Huế năm nào. Trông bề ngoài hoàn toàn không bắt mắt, bạn bè đều phải thừa nhận anh có một đôi mắt sáng và cái nhìn mãnh liệt như xuyên thấu suy nghĩ của người đối thoại.
Hè năm 1919, được sự bảo trợ của Trinh & Trường, Thành thành lập Hội ái quốc Annam. Ngoài những thành viên trí thức, Thành còn lôi kéo thêm một số thành viên từ tầng lớp lao động mà anh quen từ hồi còn làm thuỷ thủ tại Marseilles, Le Havre, Toulon. Bề ngoài, hội không đặt ra những mục tiêu cực đoan để lôi kéo đông đảo sự tham gia của cộng đồng người Việt. Việc dùng chữ Annam thay cho Việt nam muốn cho chính quyền thấy Hội không phải là mối nguy hiểm cho chế độ thực dân. Thực chất, ngay từ đầu, Thành muốn biến hội thành một lực lượng hiệu quả chống lại chế độ thực dân ở Đông Dương. Anh đã liên lạc với những hội tương tự của người Triều tiên và Tuynizi. Đây là một thời điểm hết sức thuận lợi cho những hoạt động tương tự. Sau chiến tranh, Paris trở thành trung tâm kích động của các nhóm chống thực dân. Các cuộc thảo luận về chủ đề này diễn ra thường xuyên ở quốc hội Pháp. Toàn quyền Albert Sarraut đã phát biểu tại Hà nội hứa hẹn nhiều quyền hơn cho nhân dân Việt nam. Năm 1919, đại diện các nước Đồng minh thắng trận họp tại Versailles để đàm phán điều kiện đầu hàng của khối Trung tâm và tổ chức thế giới sau chiến tranh. Tổng thống Mỹ Wilson đã mang lại niềm hy vọng cho các dân tộc thuộc địa bằng luận cương 14 điểm, trong đó thừa nhận quyền tự quyết của tất cả các dân tộc.
Ngày 18/6/1919, Hội ái quốc Annam do Nguyễn Ai Quốc ký tên đã công bố bản kiến nghị 8 điểm có tên: “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gửi các quốc gia Đồng minh, đề nghị áp dụng những tư tưởng của Wilson cho thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á. Ngôn ngữ của bản kiến nghị rất ôn hoà, không đặt điều kiện độc lập dân tộc mà chỉ đòi hỏi quyền tự quyết về chính trị, sự bình đẳng giữa người Pháp và người Việt, quyền tự do báo chí, hội họp, bãi bỏ các loại thuế hà khắc.
Nhiều nhà sử học đã nghi ngờ rằng Thành là tác giả duy nhất của bản kiến nghị. Họ cho đó là công sức tập thể. Nhiều người cho rằng đây là tác phẩm của Phan Văn Trường, người được cho là trí thức nhất trong hội. Trong cuốn tự truyện của mình, HCM tự nhận mình là tác giả và Phan Văn Trường đã chỉnh văn phạm tiếng Pháp cho ông. Tuy nhiên việc Thành có là tác giả hay không không quan trọng bởi chính anh là người đã tổ chức công bố bản kiến nghị và sau đó tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chính Thành đã đưa tận tay bản kiến nghị cho các thành viên chủ yếu của nghị viện và tổng thống Pháp. Cũng là anh dấn bước trên các hành lang của điện Verseille để trao bản kiến nghị cho các đoàn đại biểu Đồng minh. Qua các mối quan hệ của mình Thành đã công bố bản kiến nghị trên báo Nhân đạo và nhờ các chiến hữu từ thời còn thuỷ thủ phân phối hơn 6000 bản copy trên các đường phố Paris.
Chẳng có hồi âm nào từ chính quyền Pháp mặc dù các cuộc thảo luận về vấn đề thuộc địa vẫn đang diễn ra tại nghị viện. Hội nghị Versaille cũng làm thinh về chủ đề này. Tổng thống Wilson, dưới sức ép của các đồng minh đã không bảo vệ tuyên bố 14 điểm của mình. Cả thế giới thuộc địa bị thất vọng.
Tuy nhiên bản kiến nghị cũng đã làm kinh ngạc giới chức chính trị Pháp. Ngày 23/6, tổng thống Pháp viết thư cho toàn quyền Albert Sarraut, đề nghị xem xét và xác định danh tính tác giả. Tháng 8, tin từ Đông dương báo về: bản kiến nghị đang được phân phát trên các đường phố Hà nội và đã gây nên cuộc thảo luận sôi nổi trong báo giới. Tháng 9, Thành chính thức xác nhận mình là Nguyễn Ái Quốc trong một cuộc phỏng vấn cho một phóng viên người Mỹ của một tờ báo Trung hoa tại Paris. Cũng vào quãng thời gian đó, thanh tra mật thám Pháp Paul Arnoux, chuyên theo dõi cộng đồng Việt nam hải ngoại, tình cờ gặp Thành đang đi phân phát truyền đơn. Sau mấy lần uống cafe, bị ảnh hưởng bởi nhiệt huyết của chàng trai trẻ, Arnoux đã liên lạc với Bộ thuộc địa và thu xếp để Albert Sarraut gặp Thành. Và cuộc gặp đã diễn ra ngày 6 tháng 9 tại toà nhà Bộ thuộc địa ở phố Ordinot. Các mật thám Pháp đã tranh thủ thời cơ này để chụp ảnh hòng tìm ra tung tích chính xác của Thành.
Có thể NAQ (như Thành đã tự gọi mình) đã nuôi một chút hy vọng bản kiến nghị của mình có thể thấu tai chính quyền Pháp và mang lại những thay đổi ở Đông Dương. Bản tính của anh là tin vào những điều tốt đẹp của con người, kể cả kẻ thù. Sau khi đi một vòng Thuỵ sĩ, ý, Đức, Thành đã kể với bạn của mình: “nếu bạn là người tốt, ở đâu bạn cũng gặp người tốt“. Cũng có thể là Thành đã tin vào những lời dụ dỗ của A. Sarraut. Trong cuộc trả lời phỏng vấn cho tờ báo Trung hoa Thế giới, sau khi phàn nàn về tình hình tồi tệ ở Đông Dương, Thành đã thừa nhận là trước tiên cần có quyền tự do ngôn luận để nâng cao dân trí sau đó mới có thể tính đến quyền tự trị, tiến lên độc lập. Nhưng những hy vọng của NAQ đã nhanh chóng bị tàn lụi. Ngay sau cuộc gặp gỡ, Thành đã gửi đến A. Sarraut toàn văn bản kiến nghị cùng với bức thư đi kèm như sau: Như đã trao đổi với Ngài hôm qua, tôi xin gửi kèm đây toàn văn Bán kiến nghị. Vì Ngài đã thật là tốt bụng cho phép tôi nói chuyện thẳng thắn, tôi đã mạo muội hỏi Ngài rằng liệu đã có hành động nào được tiến hành liên quan đến 8 điểm kiến nghị. Đáng tiếc là câu trả lời không được thoả mãn.
Xin Ngài nhận cho lòng kính trọng của tôi.
Nguyễn Ái Quốc
Mấy ngày sau, mật thám Pháp đã xác định được NAQ tên thật là Nguyễn Tất Thành, con ông Nguyễn Sinh Sắc và đã tham gia xúi giục nổi loạn ở Huế năm 1908. Cho dù động cơ gửi Bản kiến nghị là gì đi nữa, không nghi ngờ là NAQ đã gây được tiếng vang to lớn trong phong trào yêu nước Việt nam tại Pháp. Người già thì kinh ngạc vì sự táo tợn của anh thợ tô màu. Thanh niên thì như được tiếp thêm nhiệt huyết. Một số kẻ khôn ngoan thì coi anh như “Người man rợ”. Họ thì thầm: liệu có thể hy vọng được gì ở một tay đầu gấu xứ Nghệ? ^^
Bán kiến nghị cũng đã mang lại cho NAQ sự kính trọng của các đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp (FSP). Mặc dù lúc đó đã quen với những tên tuổi lớn của FSP như Marcel Cachin, Paul-Vaillant Couturier, Leon Blum, Edouard Herriot, Henri Barbusse và cháu của Karl Max -Jean Longuet, theo lời của Zecchini, Thành chưa bao giờ được coi là thành viên đầy đủ của FSP cho đến khi Bản kiến nghị được công bố 10.
HCM đã thừa nhận rằng ông tham gia FSP vì “họ thông cảm với tôi, với cuộc đấu tranh của những dân tộc bị áp bức”. Thiên hướng về CNXH của HCM cũng như của nhiều nhà dân tuý châu Á khác có thể giải thích như hậu quả tự nhiên của chế độ thuộc địa tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Nhưng giải thích như thế cũng chưa đầy đủ. Các nhà trí thức châu Á, (đặc biệt là ở Trung quốc và Việt nam) cảm thấy đạo đức tập thể của chủ nghĩa xã hội phương Tây xem ra gần gũi với đạo Khổng hơn thái độ vị kỷ và chạy đua lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản. Đối với họ sự hào nhoáng của các thành phố thương mại thật đáng tởm, còn nền công nghiệp thì bị tha hoá bởi sự tham lam và bành trướng. Ngược lại chủ nghĩa xã hội tán dương các cố gắng tập thể, kêu gọi lối sống giản dị, bình đẳng về của cải và cơ hội có nhiều điểm tương đồng với nho giáo. Xem ra là từ Khổng tử tới Max gần hơn tới Adam Smith và John Mill 11.
Từ năm 1920 trở đi Ngài (Monsieur) Nguyễn tham gia tích cực hơn các hoạt động chính trị của FSP, Liên đoàn lao động và Liên minh quyền con người. Nhưng có vẻ như ông cũng dần dần nhận ra rằng, các đồng chí của ông chẳng mấy quan tâm đến các vấn đề thuộc địa. Max có khuynh hướng trọng Âu và hội của ông cũng vậy. Thuộc địa, nói cho cùng, cung cấp của cải cho cách mạng và công việc cho các công nhân.
Cuộc cách mạng Bolsevich ở Nga đã làm sâu sắc thêm sự bất đồng trong hàng ngũ những người xã hội, giữa một bên là phe ôn hoà của Jean Longuet, Leo Blum và phe cấp tiến của Couturier và Cachin. Nên nhớ rằng lúc đó Quốc tế thứ nhất của Max đã bị thay bởi Quốc tế II chủ trương ôn hoà và đấu tranh nghị viện. Vào cuối năm 1919, một uỷ ban ủng hộ lời kêu gọi của Lênin thành lập Quốc tế thứ ba, đấu tranh vũ lực để giành chính quyền cho giai cấp vô sản, đã được thành lập trong nội bộ FSP. NAQ cũng tích cực tham gia, quyên góp tiền cho chế độ Xôviết. Tuy nhiên ông vẫn tỏ ra ngờ nghệch, mơ hồ về sự khác nhau giữa Quốc tế II và Quốc tế III, đặc biệt mù mờ trong lĩnh vực lý thuyết. Có lần Quốc còn đề nghị Longuet giải thích ý nghĩa của chủ nghĩa Max. Ông này ngượng nghịu chỉ cho Quốc chỗ tìm đọc cuốn Tư bản luận. Đúng lúc đó “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê nin ra đời đã biến Quốc từ một người yêu nước thành nhà cách mạng Marxist chân chính. Sau này, NAQ thừa nhận, ông chẳng hiểu gì các cuộc cãi vã lúc đó và đơn giản chỉ ủng hộ phe nào đứng về phía nhân dân các thuộc địa. Lê nin đã chỉ ra rằng, chế độ thuộc địa là dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc, và các Đảng cộng sản châu Âu cần liên minh với các phong trào giải phóng dân tộc Á-Phi chống lại kẻ thù chung. Khác xa với các nhà xã hội Paris, Lê nin là con người của hành động và đã chinh phục hoàn toàn NAQ.
NAQ bắt đầu viết cho các báo cánh tả từ hè 1919. Các bạn phóng viên của ông như Jean Longuet, Gaston Monmosseau đã giúp hoàn thiện lối viết mộc mạc và nhiều khi quá thẳng của Quốc. Bài báo đầu tiên: “Vấn đề người bản xứ”được đăng trên báo Nhân đạo ngày 2/8/1919. NAQ cho rằng, người Pháp chẳng mang lại gì cho người bản xứ. Mang tiếng là khai hoá văn minh, hệ thống giáo dục của họ chỉ nhồi sọ và phục vụ một số nhỏ con cái các quan chức. Quốc dự đoán, người Việt nam hoàn toàn không được chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh với các nước láng giềng, sớm muộn sẽ bị Nhật bản đè bẹp về kinh tế. Trong một bài khác “Đông dương và Triều tiên” đăng trên báo Nhân dân tháng 10/1919, và sau đó là “Thư gửi Ngài Outrey” Quốc đả kích Maurice Outrey, đại diện cho Nam bộ tại Nghị viện Pháp vì tay này đả kích Hội an nam ái quốc và cho rằng chẳng có ai đàn áp dân chúng cả.
Công việc thợ ảnh của Quốc rõ ràng là chẳng bận rộn lắm. Ngoài viết báo, anh còn bắt tay vào viết một tác phẩm dài với tên gọi “Những người bị áp bức” với sự giúp đỡ của một nhà văn chống chế độ thuộc địa Paul Vigne d’Octon. Anh cố tình sử dụng rất nhiều trích dẫn mà không nói rõ nguồn, hy vọng khi các nhà xuất bản xúm vào đòi quyền tác giả sẽ làm cho cuốn sách nổi tiếng hơn. Đáng tiếc là bản thảo cuốn sách này bị đánh cắp. Nhiều người cho rằng mật thám Pháp đã “tháu”, tuy nhiên không thấy có bằng chứng lưu lại trong hồ sơ. Mặc dù không có nhiều thông tin về nội dung cuốn sách, chúng ta có thể dự đoán là rất nhiều dữ liệu đã được dùng lại trong cuốn sách viết được công bố năm 1925: “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Giọng điệu cuốn sách này đã gay gắt hơn rất nhiều, thể hiện rõ quan điểm Marxism của Quốc.
Quãng tháng 7/1919, NAQ chuyển đến căn hộ của Phan Chu Trinh tại Villa des Gobelins, (gần quảng trường Italia, khu trung lưu của Paris) cùng với 1 số đồng nghiệp khác. So với những chỗ ở trước của Quốc thì đây quả là một sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên cuộc sống chung cũng có nhiều vấn đề. Theo các báo cáo của cảnh sát Pháp theo dõi Trinh, NAQ và PCT thường to tiếng với nhau về con đường của cách mạng Việt nam. Quốc cho rằng các quan lại Việt nam như những con cừu non trong tay Pháp, sử dụng để ngăn cản và bóc lột nhân dân. Trinh thì cho rằng Quốc quá nông nổi: “Anh bạn Quốc, hãy để tôi nói rằng anh còn rất trẻ và có cái đầu nóng. Anh muốn 20 triệu đồng bào ta đứng lên làm gì đó khi họ không có một tấc vũ khí trong tay. Tại sao lại phải tự sát một cách vô mục đích như vậy?“ Trinh muốn dựa vào Pháp để cải cách chế độ đã thối nát trong tay các nhà nho. Quốc thì coi Pháp là kẻ thù số một: “Tại sao 20 triệu dân ta không làm gì đó để buộc chính quyền phải coi chúng ta như những con người. Kẻ nào không coi chúng ta là người, kẻ đó là kẻ thù. Chúng ta không thể chung sống với chúng. Không thể chịu nhục!“ Quốc nói, “Ông có kinh nghiệm hơn tôi, nhưng hãy nhìn xem. Cha anh ta đã đòi cái mà ông đòi suốt hơn 60 năm nay. Hỏi họ nhận lại được cái gì?” Tuy nhiên Quốc vẫn rất kính trọng Trinh và thường dẫn ông này đến các cuộc hội họp của các nhà cách mạng cấp tiến, hy vọng rằng Trinh sẽ thay đổi quan điểm.
Trong lúc đó, chính quyền Pháp vẫn tiếp tục thẩm tra nhân thân của Quốc. Họ đã thẩm vấn cha, anh và chị của Thành và hy vọng có thể kiểm tra vết sẹo trên tai từ thời nhỏ. Năm 1920, khi vào viện vì bị apxe, Quốc đã bị cảnh sát chụp ảnh. Ngày 17/8/1920, Albert Sarraut, khi đó đã là Bộ trưởng thuộc địa, ra lệnh phải truy xét bằng được nguồn gốc của NAQ. Quốc bị chất vấn tại Bộ thuộc địa. Sau đó 3 ngày lại bị gọi lên đồn cảnh sát. Tại đó Quốc khai mình sinh năm 1894, tại Vinh có 6 anh chị em và đều đã chết cả. “Hắn ta là ai vậy? Hắn thường xuyên thay tên đổi họ và hiện đang dùng một cái tên mà ngay cả người mù tịt về tiếng Việt cũng thừa hiểu nghĩa là gì. Hắn không có một tí giấy tờ tuỳ thân nào từ Đông Dương, thế mà dám can thiệp vào công việc chính trị của chính phủ, tham gia các đảng phái, phát biểu tại các cuộc hội họp. Và còn cười vào mũi chúng ta bằng những thông tin giả mạo”. Đó là nội dung báo cáo của Pierre Guesde cho Bộ thuộc địa. Cũng theo báo cáo đó, mật thám Pháp đã nhận dạng chính xác NAQ là Nguyễn Tất Thành.
Trong một thời gian dài, các phong trào xã hội Pháp do nhiều phe phái hợp thành:
- những người theo Auguste Blanqui đòi lật đổ cái đã, xây dựng xã hội mới tính sau.
- những nhà cải cách ôn hoà, đệ tử của Eduard Bernstein và Quốc tế II
- những lý thuyết gia cấp tiến có nguồn gốc từ cách mạng Pháp chứ không phải Marx
- những lãnh đạo công đoàn, đấu tranh đòi quyền lợi trước mắt và không quan tâm lắm đến ý thức hệ
Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã giáng một đòn mạnh vào sự thống nhất mong manh trong một FSP hỗn tạp. Và khi Lenin đứng lên kêu gọi cuộc thánh chiến chống chủ nghĩa tư bản, các thành viên của FSP phải lựa chọn chỗ đứng của mình. Tại hội nghị Strasbourg tháng 2/1920, mặc dù đa số đồng ý ly khai với Quốc tế II, cũng còn rất đông người phản đối gia nhập Quốc tế III. Cuộc tranh luận ngày càng trở nên quyết liệt. Marcel Cachin và Tổng bí thư Louise Frossard sau khi tham gia đại hội QTCS lần thứ hai ở Matxcơva, đã tổ chức một cuộc biểu tình với khoảng 30 ngàn người tham gia tại ngoại ô phía Tây Paris ngày 13/8. NAQ chen trong đoàn người lắng nghe Cachin nhân danh QTCS phát động cuộc chiến đấu giải phóng các dân tộc bị nô lệ, đánh thẳng vào thành trì của chủ nghĩa đế quốc. Trước thềm đại hội Tour vào cuối tháng 12, các cuộc họp cấp địa phương diễn ra liên miên, với hai nhóm tả hữu và lớp lưng chừng dưới cờ của Jean Longuet. NAQ ít tham gia tranh luận, khi phải phát biểu, ông kêu gọi sự đoàn kết và chú ý đến các vấn đề thuộc địa: “Các đồng chí, chúng ta đều là những nhà xã hội. Dù là quốc tế Hai, Hai rưỡi, hay Ba, chúng ta đều cùng muốn giải phóng giai cấp công nhân… Trong lúc các đồng chí tranh cãi ở đây, đồng bào của tôi đang chết dần chết mòn”
NAQ được mời đi dự đại hội với tư cách đại diện cho nhóm các đảng viên từ Đông Dương.
Đại hội khai mạc ngày 25/12/1920 trong một trường dạy đua ngựa cạnh nhà thờ St. Julian trên bờ nam sông Loire. Gian đại hội được trang trí bằng các bức ảnh nhà xã hội Jean Jaure và những khẩu hiệu kêu gọi giai cấp công nhân đoàn kết. Bục phát biểu được dựng tạm bằng những tấm ván gỗ đặt lên trên các giá cưa. 285 đại biểu đại diện cho 178,000 đảng viên, ngồi sau các bàn gỗ theo khuynh hướng chính trị của mình. NAQ ngồi với cánh tả do Marcel Cachin lãnh đạo. Chủ đề chính của đại hội là có tham dự QTCS hay không?
Với bộ comple rộng thùng thình trên một cơ thể mảnh khảnh của đại biểu châu Á duy nhất, NAQ nổi bật giữa một đám hàng trăm tay người Âu râu ria xồm xoàm. Vì thế ảnh Quốc được báo Le Matin đăng ngay sáng hôm sau. Lần theo bức ảnh, cảnh sát mò đến định tóm NAQ, nhưng các đại biểu đã xúm vào bảo vệ được Quốc.
NAQ đã lên diễn đàn ngay hôm đầu tiên của hội nghị. Ông nói một mạch, không cần giấy tờ và đi thẳng vào vấn đề, đả kích sự tàn bạo của chế độ thực dân và kêu gọi các nhà xã hội hành động ủng hộ các dân tộc bị áp bức. Bài diễn thuyết của ông bị Jean Longuet cắt đứt với lý do rằng ông ta đã bàn đến chuyện đấy rồi. Quốc đã nhanh trí ví von ngay với quan điểm của Max (ông của JL): “tôi đành phải áp dụng chuyên chính của sự im lặng”. Theo Quốc, chỉ có gia nhập quốc tế III mới chứng tỏ rằng FSP đánh giá được tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. “Nhân danh loài người, nhân danh tất cả các nhà xã hội cánh hữu và cánh tả, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các đồng chí. Hãy cứu chúng tôi” đó là những lời cuối cùng của bài phát biểu của NAQ.
Ngay sau đó Jean Longuet vội vã giải thích rằng ông ủng hộ nhân dân Việt nam và vấn đề đang được thảo luận ở quốc hội. Nhưng Couturier đã bác bỏ luận điểm đó: nhân dân thuộc địa đang cần những hành động chứ không phải các cuộc thảo luận. Ngày 27, Cachin chính thức đề nghị FSP chấp nhận những điều kiện của Lênin và gia nhập quốc tế III. Hơn 70% đại biểu ủng hộ. Những người đối lập đã rời khỏi hội trường để phản đối. Các đại biểu còn lại đã biểu quyết tách ra khỏi FSP và thành lập Đảng cộng sản Pháp (FCP). Tuy nhiên chẳng có cuộc thảo luận tiếp theo nào về vấn đề thuộc địa và chủ tịch đoàn đã từ chối đề nghị (chắc là của NAQ) ra một thông cáo ủng hộ các dân tộc thuộc địa 12.
Tại đại hội Tour, NAQ đã đưa ra chính kiến rõ ràng, ông không chỉ quan tâm đến sự thành công của cách mạng quốc tế mà còn cả vận mệnh của dân tộc mình. Trong một nhận xét gửi cho bạn mình Quốc viết: “Tôi không có may mắn được học hành trong trường đại học. Nhưng tôi đã được học trong cuộc sống từ lịch sử, xã hội đến khoa học quân sự. Người ta phải yêu quý điều gì? Khinh thường điều gì? Người Việt nam chúng tôi yêu độc lập, lao động và tổ quốc“.
Nhưng NAQ cũng bắt đầu cảm thấy thất vọng về các đồng nghiệp của mình ở FCP. Tháng 2/1921, NAQ bị ốm phải vào viện. Khi khỏi bệnh, Q viết bài “Đông Dương” cho tạp chí Người Cộng sản. Bài báo đã thể hiện thái độ phê bình gay gắt đối với sự thiếu quan tâm của FCP tới các vấn đề thuộc địa. Ngược lại với quan điểm thế giới vô sản đại đồng, NAQ khẳng định: “các dân tộc Đông dương sẽ sống mãi“. Ông cũng từ bỏ hy vọng giành được mục tiêu mà không phải dùng đến vũ lực. “Dưới bề ngoài dễ bảo là sự bất bình đang sôi sục, chờ dịp bùng nổ“.
Trong bài báo thứ hai dưới cùng một tiêu đề viết trong tháng 5, NAQ đề cập đến khả năng tiến hành cách mạng tại các nước thuộc địa. Nên nhớ rằng, tại thời điểm đó, các nhà cách mạng cấp tiến châu Âu cho rằng phải còn lâu các dân tộc chậm tiến mới có thể tiến hành cách mạng. Cũng trong tháng đó, Stalin đăng đàn trên báo Sự thật khẳng định “các dân tộc tiên tiến sau khi tự giải phóng bản thân, sẽ có trách nhiệm giải phóng các dân tộc chậm tiến”. Về phía mình, NAQ cho rằng các điều kiện cách mạng đã hình thành ở Trung quốc và Nhật bản, rất có thể một ngày gần đây, Trung quốc sẽ là đồng minh với Nga trong cách mạng toàn cầu. Quả là một sự tiên tri khi tình hình ở Trung quốc lúc đó còn đang rối ren sau cái chết của Viên Thế Khải và Tôn Dật Tiên thì phải đi tị nạn. NAQ đã dẫn ra những chứng cớ lịch sử cho rằng chủ nghĩa cộng sản có nhiều cơ hội để phát triển ở châu Á hơn châu Âu. Người Trung hoa cổ đại đã áp dụng hệ thống “bình điền”, chia ruộng đất thành những phần bằng nhau cho nông dân và dành một phần cho ruộng công. Hơn 4000 năm trước, nhà Hạ đã áp dụng chế độ lao động bắt buộc. Và chính Khổng Tử đã qua mặt Quốc tế cộng sản khi tuyên truyền học thuyết về bình đẳng tài sản từ thế kỷ 6 trước công nguyên. Ông nói, sẽ không có hoà bình cho thế giới cho đến ngày xây dựng được một nhà nước toàn cầu. Ông còn thuyết giảng: “người ta không sợ có ít, chỉ sợ chia không bình đẳng”. Một trong những học trò của ông là Mạnh Tử còn đi xa hơn trong việc xây dựng kế hoạch chi tiết cho sản xuất và tiêu thụ. Những truyền thống như vậy vẫn còn ảnh hưởng to lớn trong những xã hội châu Á. Chẳng hạn, Việt nam đã áp ụng những hạn chế trong việc mua bán đất đai, 1/4 đất ruộng được sử dụng như tài sản công. Khi các dân tộc châu Á thức dậy, họ sẽ trở thành một thế lực to lớn của cách mạng, lật đổ chủ nghĩa đế quốc toàn cầu.
NAQ còn dùng ngòi bút của mình để vạch trần những ảo tưởng của xã hội văn minh Pháp. Trong bài báo với nhan đề:“nền văn minh thượng đẳng”, viết tháng 9 năm đó, NAQ chế diễu nguyên tắc tam ngôi của cách mạng Pháp, sử dụng những ví dụ cụ thể trong một cuốn hồi ký của 1 người lính Pháp. Trong tờ Le Libertaire, Quốc kể lại những sự tàn bạo của các thầy giáo Pháp ở trường quốc học Huế, ngay dưới khẩu hiệu Aimez la France, qui vous protege.
Chính quyền Pháp càng ngày càng theo dõi NAQ chặt chẽ hơn vì sự cấp tiến của ông. Đầu năm 1921, Allbert Sarraut lại mời Quốc lên Bộ thuộc địa và tuyên bố “Nếu Pháp trả lại độc lập của Đông Dương cho ông, ông làm sao có thể điều hành được. Các ông làm gì có đủ sức mạnh”. NAQ đã trả lời “Ngược lại, các ông sẽ thấy chúng tôi sẽ biết cách cai trị như thế nào. Nhật bản và Xiêm cũng chẳng có bề dày lịch sử hơn chúng tôi, và họ là những dân tộc tự do”. Đến đó, AS chủ động đổi chủ đề 13.
Việc Quốc tham gia Đảng cộng sản Pháp đã làm tình hình tại Villa des Gobellin thêm căng thẳng. Một người bạn thân của Quốc là Trần Tiến Nam đã tâm sự với 1 cô bạn gái của mình (trong thời gian Đại hội Tour) là ít người đồng tình với quan điểm của NAQ. Cảnh sát theo dõi ngôi nhà cũng thông báo là thường xuyên có những cuộc cãi lộn. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm vào tháng Bảy. Ngày 6/6, Quốc tham gia vào đoàn biểu tình công nhân kỷ niệm những chiến sĩ ngã xuống trong Công xã Paris 1871, bị cảnh sát đánh tơi bời may mắn thoát được về nhà. Bạn cùng phòng được một phen khiếp vía. Trần Tiến Nam vội vàng chuyển chỗ vì sợ dính líu. Ngày 11/7, cảnh sát báo cáo đã xảy ra một cuộc cãi vã lớn từ 9h tối tới tận sáng hôm sau. Quốc thu xếp hành lý bỏ đến ở với mình là Võ Văn Toàn ở 12 Rue Buot. Một tuần sau, Paul Couturier thu xếp được cho Quốc một căn phòng nhỏ tại số 9 ngõ cụt Compoint khu công nhân Batignolles – Tây bắc Paris. Chỗ ở mới thật là thảm hại so với tiện nghi tại Villa des Gobellin. Căn phòng chỉ vừa đủ để kê một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và tủ quần áo. Cửa sổ nhòm thẳng vào tường nhà người khác. Không điện, nước, lò sưởi.
Công việc của NAQ cũng thay đổi thường xuyên, anh làm thợ tô màu cho PCT đến ngày 7/1920. Sau đó chuyển sang vẽ bích hoạ cho một nhà sản xuất đồ gỗ Tàu ở khu Latin. Lại chuyển đến hiệu ảnh tại phố Froidevaux. Cuối cùng Q cũng tìm được một chỗ làm ở hiệu ảnh gần nhà sau khi chuyển khỏi Villa des Gobellin. Nhưng đồng lương còm cõi khoảng 40 fr/tuần có vẻ chẳng ảnh hưởng gì đến lối sống của Q. Anh vẫn thường xuyên dự các cuộc miting, thậm chí ở tỉnh xa, thăm triển lãm, đi thư viện, thù đãi bạn bè trong căn phòng nhỏ của mình.Trong số những người quen mới có ca sĩ Maurice Chevalier và nhà văn Collete. Chắc chắn là NAQ được FCP tài trợ thêm 14.
Cuộc chia tay tại Villa des Gobellin có lẽ đã được khơi mào bằng sự bất đồng xung quanh việc thành lập Uỷ ban các vấn đề thuộc địa thuộc FSP. Khoảng giữa tháng sáu, Quốc đã dẫn PCT đến dự một cuộc họp của Uỷ ban. Vài tuần sau, Quốc dự cuộc họp thứ hai tại Fontaineblau. Sau khi trở về 2 ngày, đã xảy ra cuộc cãi lộn cuối cùng (cảnh sát còn thông báo là trước đó 1 ngày có 6 người đàn ông lạ mặt đến căn hộ). Một trong những hoạt động đầu tiên của ủy ban là thành lập Hội Liên thuộc địa, nhằm tạo một tiếng nói chung cho đại diện tất cả các thuộc địa hiện đang sinh sống ở Pháp. Lúc mới thành lập hội có khoảng 200 thành viên, chủ yếu là Việt nam và Madagascar, thêm vài thành viên Bắc Phi và Ấn độ. NAQ là động lực chủ yếu của tổ chức mới cùng với Nguyễn Thế Truyền, Max Bloncourt, Hadj Ali người Alger. Chính tại đây anh hiểu ra những khó khăn to lớn khi liên kết các lực lượng thuộc địa thành một tổ chức thống nhất. Người Việt thì đòi một tổ chức thuần Việt, người Phi thì cho rằng dân châu Á kiêu căng, hợm mình. Một số phần tử cấp tiến châu Âu muốn tham dự thì lại bị cho ra rìa… Các cuộc họp cứ vắng dần, từ hơn 200 người xuống còn khoảng 50. Trong một phiên họp thậm chí chỉ có 27 mống, kể cả hai cô gái Pháp, bồ của các thành viên. Q cũng có một số bạn gái nhưng chẳng dính dáng gì đến chính trị. Tuy nhiên Q cũng đã có một thành công nhỏ là thuyết phục được Phan Văn Trường tham gia.
Hội họp chẳng phải là hoạt động duy nhất của Q trong thời gian này. Anh đã học được từ những người bạn Pháp cách sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền cách mạng. Được sự đồng tình của uỷ ban và Hội, Q thành lập báo Le Paria (Người cùng khổ) viết bằng tiếng Pháp, nhưng có thêm tiêu đề tiếng Hoa và Arab. Báo ra hàng tháng và số đầu tiên ra ngày 1/4/1922. NAQ là tổng biên tập kiêm phóng viên chính, và thỉnh thoảng kiêm luôn cả việc trình bày và phát hành. Qua các trang NCK, Quốc tiếp tục rèn luyện kỹ năng viết báo của mình. Lối viết của anh đơn giản, không hoa mỹ, chịu ảnh hưởng nhiều của Leo Tonstoi. Q chủ yếu dựa trên các sự kiện và con số để nêu quan điểm của mình. Độc giả có cảm tưởng như Q là một từ điển thống kê sống về cuộc sống khổ cực tại các thuộc địa. Đôi khi, anh sử dụng giọng văn châm biếm thay cho các con số. Lối châm biếm của anh cũng rất trực diện, đi thẳng vào vấn đề không mang tính triết lý như Lỗ Tấn thời bấy giờ. Sau này, rất nhiều nhà nghiên cứu cũng không thể hiểu nổi, tạo sao một con người có sự quyến rũ cá nhân sâu sắc và một tính cách huyền ảo lại có thể áp dụng một cách hành văn có vẻ vụng về và đơn giản như vậy. Đây chính là chìa khoá của tính cách và sự hiệu quả trong hoạt động cách mạng của HCM. Không giống như nhiều lãnh tụ Marxist khác, HCM luôn coi độc giả của mình là tầng lớp bình dân: nông dân, thợ thuyền, viên chức, binh lính, chứ không phải các trí thức của xã hội. Ông không có ý định gây ấn tượng bằng sự uyên bác, sắc sảo của mình mà thuyết phục độc giả bằng sự đơn giản và sống động, để chia sẻ các quan điểm về thế giới và con đường tiến tới thay đổi. Độc giả sành điệu sẽ có khi cảm thấy chán ngấy, ngược lại, những bài viết tố cáo, kêu gọi lại có sức mạnh phi thường. Phút chốc, NCK đã trở nên nổi tiếng là tiếng nói đại diện cho các dân tộc bị áp bức. Bất cứ ai sẽ bị bắt ngay lập tức nếu bị bắt gặp đang đọc báo. NAQ nhớ lại “Hầu như tất cả các số báo đều được Bộ thuộc địa mua hết”. Tuy nhiên một số lượng nhỏ cũng được chuyển về các thuộc địa qua kênh các thuỷ thủ. Đồng thời, NAQ vẫn tiếp tục viết cho các báo cánh tả khác tại Paris. Năm 1922, Khải Định sang Pháp dự Triển lãm thuộc địa, được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 8 tại Marseille. Mặc dù đã được Sarraut đề nghị im lặng, NAQ và PCT vẫn tận dụng cơ hội này. Trên tờ Dán báo, 9/8/1922, Q miêu tả Khải Định như một món đồ trang trí được bày trong tủ kính của Triển lãm trong khi dân chúng thì bị đày xuống bùn đen. NAQ con viết vở kịch “Con rồng tre” được công diễn tại CLB Fabourg. Sự khi quân này đã đẩy cha con NAQ tới sự chia rẽ sâu sắc hơn. Khi nhận được tin con, Sắc đã tuyên bố, đứa con nào không công nhận hoàng đế, đứa con đấy cũng không có cha.
Chuyến đi thăm của Khải Định là cơ hội cuối cùng cho Q và Trinh đứng trên một trận tuyến. Trước đó, tháng 2/1922, Trinh đã gửi cho Quốc một lá thư. Mặc dù vẫn bảo vệ quan điểm của mình về việc nhấn mạnh giáo dục, Trinh tự nhận mình là một “con ngựa già”, con Q đang là một “chú ngựa hoang” đầy sức sống. Tuy nhiên Trinh khuyên Q đừng mất thời giờ tại nước ngoài như Phan Bội Châu mà hãy về nước chiến đấu. Nếu chẳng may thất bại, sẽ có người khác đứng lên tiếp tục. Q lại có những kế hoạch khác. Bây giờ anh đã trở nên một nhân vật chủ chốt trong phong trào cấp tiến của Pháp.Được sự trợ giúp của George Pioch, kỹ năng phát biểu của anh đã hoàn thiện và Q thường xuyên tranh luận với các lãnh đạo chủ chốt của FCP. Anh cũng bị mật thám Pháp quan tâm kỹ lưỡng. Ngày 22/6/1922, Albert Sarraut lại mời Q lên Bộ thuộc địa. Sau khi đe doạ sẽ trừng trị thẳng tay những hoạt động nhập khẩu cách mạng vào Đông Dương, AS định mua chuộc Q: “Tôi rất kính trọng ý chí của anh. Hãy để quá khứ thành quá khứ. Chúng ta đã là bạn. Khi nào anh cần gì cứ bảo tôi”. NAQ đứng dậy cám ơn và nói: “Điều tôi cần nhất trong cuộc đời là độc lập cho đồng bào của tôi. Xin phép ngài cho tôi đi”. Vài ngày sau, Quốc viết thư cho Bộ thuộc địa. (Bức thư này cũng được công bố trong báo Nhân đạo và Người cùng khổ). Trong thư Q đã cám ơn chính phủ Pháp đã cung cấp một số “phụ tá” (tức các mật thám theo dõi) và rất lấy làm “xấu hổ” vì đã tiêu tốn mồ hôi của giai cấp vô sản. Q cũng cung cấp luôn lịch hoạt động hàng ngày của mình
Sáng: từ 8h-12h, tại cửa hàng
Chiều:tại toà báo
Tối: ở nhà hoặc đi học
Chủ nhật/ngày nghỉ: viện bảo tàng, thăm quan
Tôi mong rằng phương pháp này sẽ làm Ngài hài lòng, kính thư – Nguyễn ái Quốc
Sarraut tất nhiên là chẳng có bụng dạ nào để ý đến sự châm biếm của Q. Ông này liên lạc với Toàn quyền Đông dương Maurice Long, đề nghị bắt và đưa về VN. Long cho rằng cứ nên giữ Q ở Pháp, dễ theo dõi hơn. Sarraut lại đề nghị đầy Quốc đến vùng Nam Trung Quốc. Long cũng không đồng ý, sợ Q có thể lãnh đạo cách mạng trong nước từ đó. Tuy nhiên điều làm Q thất vọng hơn cả là thái độ của các đồng chí trong cánh tả Pháp về vấn đề thuộc địa. Sau khi xuất hiện rùm beng, Hội Liên thuộc địa nhanh chóng bị lãng quên. Theo Q ngay cả báo Nhân đạo cũng không quan tâm đến vấn đề đúng mức. Q cho rằng các báo tư sản còn miêu tả thuộc địa kỹ hơn, thậm chí đã tạo cho mọi người hình ảnh các nước thuộc địa hết sức mỹ mãn: “cát, mặt trời, gió biển, những hàng dừa xanh và các thổ dân loè loẹt”. Điều này làm cho giọng điệu của Q ngày càng trở nên chống Pháp. Trong loạt bài báo miêu tả cảnh khổ cực của các công nhân cảng Marseilles cuối năm 1921, Q đã ký tên Nguyễn Ô Pháp (tức là ông Nguyễn ghét Pháp). Q còn tranh luận nảy lửa với một lãnh đạo của FCP về vấn đề thuộc địa. Đến nỗi, Jacques Doriot – một ngôi sao mới nổi của FCP phải thì thầm khuyên Q dịu giọng.
Tháng 3/1923, một mặt để tiết kiệm tiền, mặt khác tiện làm việc, Q chuyển từ ngõ Compoint đến căn phòng 100fr/tháng ở tâng trên của trụ sở báo NCK tại Rue du Marche des Patriarches. Đây là chỗ ở cuối cùng của Q ở Paris. Một nhân vật Việt Nam quan trọng đã giúp Q rất nhiều trong việc phát hành báo là Nguyễn Thế Truyền. Truyền sinh năm 1898, đến Paris năm 1920 để nghiên cứu kỹ nghệ. Năm 1921 Truyền gia nhập FCP và trở thành đồng minh thân cận nhất của Q trong cộng đồng Việt nam.
Trong một lần đại hội FCP vào tháng 10 năm trước, NAQ gặp Dmitri Manuilsky, đại diện của QTCS tại Liên xô. Ông này rất đắc ý nghe Quốc đả phá kịch liệt sự thiếu quan tâm đến các vấn đề thuộc địa của FCP. Nhiều tháng sau, khi Mauilsky được phân công chuẩn bị bản báo cáo về các vấn đề dân tộc và thuộc địa cho Đại hội 5 QTCS mùa hè năm 1924, ông lập tức nhớ đến chàng thanh niên Việt nam đầy nhiệt huyết. Q được mời đến Moscow làm việc cho QTCS.
Đối với Q, lời mời đến Moscow là phần thưởng to lớn cho nhiệt huyết anh đã bỏ ra cho Đảng. Đây cũng là cơ hội to lớn để Q quay về châu Á và Việt nam. Nhưng vốn tính cẩn thận, Q thông báo cho bạn bè là chuẩn bị đi nghỉ 3 tuần ở miền Nam Pháp. Ngày 13/6/1923, sau khi không để lại một chút nghi ngờ nào cho 2 “trợ lý” của cảnh sát Pháp, Q đi ra cửa sau của một rạp chiếu bóng, đến Gare du Nord và lên tàu đi Berlin trong vai một nhà buôn châu Á giàu có. Đến Berlin, Q đi tiếp đến Hamburg, lên tàu Karl Liebknechtđến nước Nga Xô viết. Ngày 30/6 Q cập bến Petrograd với hộ chiếu của một nhà buôn Trung quốc Trần Vang 15.
Chuyến đi của NAQ đã làm cho cả cảnh sát Pháp và những người bạn của Q nhức đầu. Q đã chính thức nói không với con đường cải cách của PCT để đi theo Vladimir Lenin. “Mặc dù Q còn trẻ và có thể có những hành động thiếu suy nghĩ. Nhưng điều quan trọng là anh ta có một trái tim của con người yêu nước. Anh đã chọn con đường cô đơn và đầy gian khó để giải phóng dân tộc mình. Và tất cả chúng ta phải kính trọng trái tim can đảm đó“. Đó là những lời tâm huyết của PCT dành cho người đồng chí trẻ tuổi của mình trong bức thư gửi cho bạn bè tháng 9/1923.
——————————–
Con Lừa của Bác Hồ
1Bùi Quang Chiêu.
2Xem Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngu Chiêu “Từ mộng làm quan đến đường cách mệnh”, Đường Mới, số 1 (6/1983), tr. 14. Cũng có thể có lý do là Thành muốn giúp cha mình được khôi phục vị trí. Không phải ngẫu nhiên tên cha cậu lại được nhắc đến.
3Có thể là Thành viết bức thư này ngay trước khi cậu rời Việt nam vì cậu đề địa chỉ là: “Tàu LT”.
4Các cuộc tìm kiếm trong hồ sơ của khách sạn Parker House không thấy thông tin gì về Thành. Cơ quan nhập cảnh Mỹ cũng không lưu bất cứ một hồ sơ nào về sự có mặt của HCM ở Mỹ.
5Hồi ký của Escoffier không thấy nhắc gì đến kỷ niệm với HCM. Hồ sơ lưu trữ của Anh cũng không có thông tin về Hội công nhân hải ngoại.
6Ngay những người chống đối nhất cũng thừa nhận là HCM đã từng ở London, có điều chỉ thăm trong thời gian ngắn. (xem Huy Phong & Yến Anh “Nhận diện HCM…“, Văn nghệ, SanJose, 1988, pp18-19 hoặc Nguyễn Thế Anh: “Vô sản hoá HCM: thực tế và huyền thoại“, Đường Mới, 7/1984). Bà chị HCM bị bắt năm 1918 vì tội buôn lậu vũ khí đã khai trong một cuộc hỏi cung năm 1920 rằng ông em đã viết thư báo cho bà về việc đi Anh và sống ở London trước khi chiến tranh nổ ra. Cũng vào năm đó, chính quyền Pháp báo cáo rằng, ông đã gửi một bức thư cho toàn quyền Albert Sarraut qua cơ quan lãnh sự Anh tại Sài gòn. Mật vụ Pháp đã không truy tìm được tung tích nhưng việc HCM viết thư qua cơ quan lãnh sự Anh cho thấy có thểông đã gửi thư đi từ Anh.
7Boris Souvarine, sau đó rời bỏ phong trào cộng sản và trở thành một trong những người công kích HCM gay gất nhất. Xem “De Nguyen Ai Quoc en Ho Chi Minh” , Est et Quest (Paris), 1-15/3/1976, pp 567-568.
8Karnow phỏng vấn Leo: Paris những năm 50 ( Newyork Random House, 1997) pp 216-217. Ông còn nhận xét rằng Thành còn ham thích nghiên cứu những chủ đề thần bí. Hình như Thành còn viết bài cho tạp chí điện ảnh và đã xin vào Hội tam điểm.
9Gaspard (HoChiMinh ở Paris), p 76. Dấu vết của Thành trong giai đoạn đầu ở Paris rất khó tìm. Hình như cậu sống với một người Tunizi ở Rue de Charonne, gần Palace de Bastile, sau đó chuyển đi vì người bạn bị theo dõi. Địa chỉ sớm nhất (quãng đầu năm 1919) có thể kiểm tra được là nhà trọ (bây giờ là khách sạn Tổng thống Wilson) tại 10 Rue de Stockholm.
10Nhiều nhà nghiên cứu còn đang tranh cãi về ngày vào FSP của NAQ. Kobelev cho rằng đó là vào năm.
1918. Còn theo Gaspard và Nguyễn Thanh Chủ tịch HCM p.43, chẳng có người Việt nào trong FSP năm
1918.
11Xem thêm Con đường tới chính quyền của những người cộng sản pp.26-29, của cùng tác giả. Nguyễn Khắc Viện cũng đề cập tới vấn đề này trong cuốn Truyền thống và cách mạng ở Việt nam, pp 15-74.
12Xem Đặng Hoà Bác Hồ: Những năm tháng ở nước ngoài Hà nội, NXB Thông tin, 1990, tr 33. Trong hồi ký, HCM nhớ lại cuộc nói chuyện với một cô gái ghi tốc ký của hội nghị tên là Rose. Cô này hỏi NAQ sao lại bỏ phiếu cho quốc tế III. NAQ trả lời “Thật là đơn giản, tôi chẳng hiểu gì khi các bạn cãi nhau về chiến thuật của giai cấp vô sản. Nhưng tôi hiểu rõ rằng, QT III đặt mục tiêu giải phóng các dân tộc thuộc địa. QT II thì chẳng thấy đả động gì. Điều mà tôi muốn là tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho đất nước tôi. Đó là lý do vì sao tôi bỏ phiếu cho QT III”.
13Gaspard HCM ở Paris, Thời điểm của cuộc nói chuyện này có lẽ vào tháng Hai, 1921. Theo một số nguồn khác, NAQ ở bệnh viện từ tháng Giêng đến đầu tháng Ba. Một mật thám Pháp đã nói chuyện với Quốc trong bệnh viện và Quốc đã nhắc đến cuộc gặp gỡ với Sarraut.
14Theo lời đồn của giới di cư Việt nam, HCM có vợ và con trong giai đoạn này. Tuy nhiên tác giả không tìm thấy một bằng chứng nào.Xem thêm bài trong tạp chí Thức tỉnh (Paris) số 3, tr 19.
15Ngày sang Nga của NAQ có nhiều quan điểm, có người nói năm 1922, có người nói năm 1923. Tuy nhiên thông tin trên đây lấy từ hồ sơ của cảnh sát Pháp được coi là chính xác nhất.
 CON LỪA CỦA BÁC HỒ

Kỵ Binh
Chào Bác,
Dạo này Tèo hơi “bị” chậm hồi âm meo Bác. Cứ đem lý mà xét, thế nào Bác cũng nghĩ là Tèo đã trở chứng, lạnh nhạt hờ hững với Bác. Nhưng ở đời đâu phải cái gì cũng đem lý ra mà luận lẽ phải/ chăng được, ha Bác. Chẳng hạn như việc Bác xách đầu đại ân nhân của Bác và băng đảng Bác, bà Cát Hạnh Long Nguyễn Thị Năm ra mà bắn cái đoàng để mở đầu “Cuộc Cách Mạng Long Trời Lở Đất” khi bà ấy chẳng có tội tình gì cả. Bác cứ yên tâm, tình Tèo dành cho Bác chẳng những không hờ hững lạt phai; ngược lại ngày một thêm gắn bó, hay nói cách khác, tình hình Đất Nước càng thê thảm,Tèo càng chiếu cố Bác hơn...
Vì tình hình Đất Nước càng ngày càng thê thảm nên Tèo có meo hôm nay nhắc đến chuyện con Lừa của Bác. Mà Bác ơi, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, nay cũng đã xấp xỉ tuổi Bác “đi gặp” Cố nội Cán Mác và Ông nội Lưỡi Lê, Tèo đã có dịp “làm việc” với rất nhiều con Lừa nhưng chưa khi nào Tèo bị chúng lừa cả. Tèo không biết chữTrung Cuốc , không hiểu chữ “Lừa” bên tiếng nước anh em môi hở răng lạnh có ý nghĩa gì thâm thúy đẹp đẽ khác nơi tên con vật hiền lành cam phận kia.Tèo chỉ biết nghĩa tiếng Việt của “Lừa” là lừa bịp, lừa gạt, lừa đảọ, lừa dối, lừa phỉnh, lừa phản; chẳng hạn như “lừa thầy phản bạn” .
“Con Lừa của Bác?”.Tèo biết thế nào Bác cũng ngạc nhiên, “Uả, cái thằng Cu Tèo ni, mi từng bảo một thời là cháu ngoan của Bác mà chẳng thông suốt lịch sử Đảng tí nào cả ! Hồi xưa ở Pắc Bó, Ông Ké hay Già Thu tức là tau đây, mỗi lần ra khỏi hang đi cà nhỏng cà nhông một vòng xem có cháu gái Tày Mường nào ngoan để nháy mắt báo cho các đồng chí lãnh đạo sắp xếp thời khoá biểu rồi triệu tập vào hang làm việc với Bác, chẳng hạn như mẹ thằng Nông, tau chỉ cưỡi ngựa, chứ thấy có bao giờ tau cưỡi Lừa đâu.”
Thưa Bác, quả đúng là chốn sơn cước Cao Bằng, xe nổ đã không,xe kéo cũng chẳng, Ông Ké hay Già Thu chỉ cưỡi ngựa, và cưỡi các cháu thôi. Bác không bao giờ cưỡi Lừa, nhưng Bác có nuôi một con Lừa. Con Lừa của Bác mau ăn chóng lớn thật là phi phàm; trong thiên hạ chẳng có con nào bì kịp. Nó sống khoẻ--càng già càng khoẻ; nó sống dai—dai hơn cả Bác . Con Lừa của Bác Hồ mới đúng là Lừa của ...con thật việc thật ( người thật việc thật) đúng với ý nghĩa của tên gọi .
Nó là con Lừa thật từ một buổi trưa năm 1911, khi cậu thanh niên xứ Nghệ lơ ngơ nơi Bến Nhà Rồng lớ ngớ bước chân lên tàu Pháp Amiral Latouche-Tréville, láo ngáo tự xưng tên là Ba với ông Mai, người Hải Phòng, làm ở phòng ăn của các sĩ quan trên tàu. Để “đi tìm đường cứu nước”, như Lịch Sử Đảng bép nhép; hay là để đi tìm đường cứu đói, như ghi chép trong tài liệu đang nằm chình ình trong các văn khố bảo tàng của các nước Anh, Pháp, Nga ...?
Đó là lá Đơn của “Bác” Nguyễn Tất Thành nạp ngay khi mới đặt chân lên kinh thành Marseilles, ngày 15 Tháng 9 năm 1911, xin Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp vào học Trường Bảo Hộ, với mục đích “Je désirerais devenir utile à la France...”(sic)
Đó là Đơn của Bác từ New York đề ngày 15 Tháng 12 năm 1912 gửi viên khâm sứ Pháp tại Huế tha thiết “...cầu mong Ngài cho cha tôi được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo,hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao qúy của qúy Ngài ...”
Với mục đích “tôi ao ước trở nên hữu ích cho nước Pháp” hiếu trung với mẫu quốc như thế mà đơn xin vào học Trường Bảo Hộ của Bác lại bị bác; rồi kết quả những lời “cầu mong” thảm thiết xin việc cho cha cũng chả ra chi. Con Lừa của Bác bèn quay sang cánh đồng cỏ Mác Xít .
Con Lừacủa Bác no cành một bụng cỏ đỏ rặt Liên Xô làm món quà qúy mang về từ phương xa, Bác phải ưu tiên dành cho quê cha đất tổ: “Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh”, với khẩu hiệu vang trời “Trí Phú Địa Hào, Đào tận gốc trốc tận rễ” . 1930 -2010: 80 năm sau, bầy cháu Bác có công dạy bảo nay đã trồng lên được một rừng đại thụ : chúng sínhTrí Thức hơn ai hết: chúng đua nhau thành Tiến sĩ ,Phó Tiến Sĩ trên giấy tờ không cần cầu chưng; bằng cấp giả tràn lan,có Giáo sư dạy Đại Học cũng dùng bằng TS mua ; chính phủ của chú Nguyễn Tấn Dũng lại ra chỉ tiêu từ nay đến năm 2020 phải đạt cho được 20 ngàn cháu Tiến Sĩ; 80 năm sau, Phú ông ngày xưa với “ba bò chín trâu, một bè gỗ lim, dăm bảy nồi đồng mâm thau”, so với Phú -đồng –chí- lãnh đạo đảng hôm nay với hàng triệu, hàng tỷ Đô La US; 80 năm sau, Địa Chủ ngày xưa dăm ba sào ruộng so với Địa Tớ (nhân dân) hôm nay sở hữu bạt ngàn ruộng đồng đồi núi sông biển xài không hết đem cho thuê cho bán; 80 năm sau, Hào cường được Bá ác tiếp tay: chùa chiền cũng cướp, nghĩa trang cũng dành, một cách ngon ơ !
Tám mươi năm trước Con Lừa rống lên “Không có gì qúy hơn Độc Lập Tự Do” để xúi trăm họ đua nhau chết cho một chiến thắng mà hậu qủa tệ hại hơn thời Thực Dân Phong Kiến.”Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp” xưa kia, nay đem ra đối chiếu với Bản Án mà trong thâm tâm người dân Việt Nam đã định tội đang chờ ngày lôi bọn thủ phạm ra trước vành móng ngựa còn nhẹ hơn nhiều: Bản Án Chế Độ Cộng Sản Việt Nam.Lý do dễ hiểu là sống dưới chế độ Thực Dân Pháp, người tà được tự do hơn, được luật pháp che chở hơn; vắn tắt là quyền con người khá hơn nhiều, và lãnh thổ lãnh hải quốc gia Việt Nam không bị cắt nhường cho nước ngoài nào .
Con Lừa của Bác chồng chất trên lưng những món hàng “vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp Bác”, còn lủng lẳng bên hông lỉnh kỉnh vô vàn những hàng mạo hoá hay đồ chôm chỉạ .Những món như “Nhật Ký Trong Tù, Vừa Đi Vưà Kể Chuyện, Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch”.Những món như: ngôi nhà của Bác, mới nghe qua hai chữ “nhà sàn” , người ta chỉ nghĩ đến những maí tranh đơn sơ của đồng bào thiểu số miền Thưọng du, nhưng nhà sàn của bác thì khác; theo nhà nghiên cứu Trần Gia Phụng thì “bên ngoài có vẻ giản dị một các cố ý”, nhưng “bên trong lại rất sang trọng, xây dựng bằng loại gỗ cực tốt, trang bị đầy đủ theo tiện nghi thời đại...” ; ngày sinh của Bác: Ngày 19/5/1945 quan Toàn quyền Pháp D’Argenlieu đến Hà Nội, Bác phải cho treo cờ để chào đón; để tránh bị đồng bào phản đối, Bác phịa ra đó là “Ngày sinh nhật Bác Hồ”!!!
Bác Hồ ơi, bao giờ mới khui ra hết được hàng mạo, hàng chôm chất đầy thân con Lừa của Bác .
Thôi Bác cho Cu Tèo ngưng meo hôm nay ở đây nha.

Cu Tèo




Viết Về Chủ Tịch Hồ Chí Minh
Tuesday, June 28, 2011 11:28:02 AM



1 . VIẾT VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

‘‘ Bao nhiêu sao sáng bấy nhiêu anh hùng vì dân ,
mà bác Hồ ngôi sao sáng vô ngần ,
cuộc đời của bác chói ngời gương người cộng sản ,
quyết làm theo lời bác dạy khuyên .
Quê hương yêu dấu Bắc – Nam chung một dòng máu ,
đoàn kết bên nhau đàn cháu ngoan của bác Hồ ,
v...v..... ,
nguyện xứng cháu của bác Hồ Chí Minh ! ’’ .

Có thể nói rằng không ai là người Việt Nam lại không biết đến Chủ Tịch HỒ Chí Minh , các thế hệ thanh , thiếu niên , nhi đồng lại càng được giáo dục kỹ lưỡng về ông . Những bài hát như trên là xuất hiện ở mọi lúc mọi nơi , dù ông mất đã hơn 30 năm nay . Trên các phương tiện thông tin đại chúng , trong sách giáo khoa các cấp cũng luôn nói tới ông từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ . Tất cả đều nhằm mục đích làm cho mọi người hiểu rằng : không bao giờ được quên công lao to lớn của ông đối với dân tộc và kêu gọi hãy ‘‘ Sống , chiến đấu , lao động và học tập theo gương của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ’’ .

Tài Liệu Giáo Dục Công Dân lớp 7 , Nhà Xuất Bản Giáo Dục năm 1997 , trang 53 có một bài đọc thêm nhan đề : " Tinh Hoa Của Dân Tộc Việt Nam Góp Phần Vào Tinh Hoa Thế Giới " , nội dung khẳng định một sự kiện là : vào năm 1990 , nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch , Tổ Chức Giáo Dục , Khoa Học Và Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc , tức UNESCO ( United Nations Educational , Scientific and Cultural Organization ) , đã ra một nghị quyết công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới . Trong đó có đoạn : ‘‘ Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hiện tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc , đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng cho nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc , dân chủ và tiến bộ… ’’ ( trích nghị quyết UNESCO , sách đã dẫn ) .

Trong bài Chủ Tịch Hồ Chí Minh , Danh Nhân Văn Hóa Của Nhân Loại , bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Dy Niên , nguyên chủ tịch ủy ban UNESCO Việt Nam , viết vào tháng 5 năm 2000 vừa qua cũng tiếp tục khẳng định như vậy .

Dù có ý đọc kỹ nhưng tôi không thấy cả hai bài viết trên ghi cụ thể đấy là nghị quyết số mấy ? . Ký ngày nào và ai đã ký nó ? , như thông thường đối với việc trích dẫn một nghị quyết quan trọng như thế . Tuy nhiên ở nước ngoài , vì có điều kiện được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác thì tôi lại thấy những bài viết quả quyết rằng : không hề có một nghị quyết nào như vậy cả ! . Ðiều đó có nghĩa là Chủ Tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới , mà ông mới chỉ có tên trong danh sách được đề cử , rồi dừng lại ở đó thôi .

Nhận thấy đây là một vấn đề lớn nên làm rõ , vì dù ai có chấp nhận hay không thì trong thực tế ông cũng đã là nhân vật lịch sử của Việt Nam trong thế kỷ thứ 20 vừa qua . Còn cái lịch sử ấy đã và sẽ tiếp tục diễn ra như thế nào ? , Tốt hay xấu ? , v...v..... thì đó không phải là mục đích chính mà tôi muốn đề cập đến trong bài viết này .

Ngoài ra còn là vấn đề bức xúc hơn, nó liên quan đến sự nghiệp trồng người của dân tộc : những học sinh lớp 7 kia rồi sẽ lớn lên và với thời đại bùng nổ thông tin như ngày nay , thì việc các em được tiếp cận với những nguồn tài liệu khác là rất dễ dàng . Khi ấy liệu các em còn biết tin vào đâu ? . Nguồn nào đúng , còn nguồn nào sai ? . Nếu chúng tự phát hiện ra sự thật lại ngược hẳn với những gì đã được dạy dỗ từ nhỏ đến lớn thì sao ? . Từ đó rất có thể chúng sẽ oán trách các thế hệ cha anh đã lừa dối chúng , rồi cứ theo cái vết mòn ấy , biết đâu chúng lại đi lừa dối tiếp những thế hệ sau , thì hậu quả sẽ tai hại biết nhường nào ? . Cả một dân tộc cứ đi lừa dối lẫn nhau mãi như vậy thì dân tộc ấy sẽ đi về đâu ? .

Chính vì những lý do trên mà ở phần dưới đây , tôi xin được nêu ra một số câu hỏi liên quan đến thân thế và sự nghiệp của Chủ Tịch Hồ Chí Minh , nhưng đến nay vẫn chưa được làm rõ . Tôi rất mong các nhà nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước , vốn quan tâm đến lịch sử Việt Nam hiện đại , nhất là đến thế hệ trẻ Việt Nam tương lai hãy giải đáp giúp . Tôi nghĩ rằng đây không chỉ đơn thuần là mối quan tâm của riêng tôi - một độc giả , mà còn là của hàng chục triệu phụ huynh học sinh đang có con cháu mình đi học ở Việt Nam . Mặt khác theo tôi , nếu những việc mới diễn ra trong thế kỷ 20 vừa qua , thậm chí chỉ mới 11 năm nay thôi mà chúng ta không làm rõ được , thì nói gì đến việc đi tìm hiểu , xác minh những chuyện lịch sử xa vời có từ hàng trăm , hàng ngàn năm trước ? .



2 . NHỮNG CÂU HỎI CỦA TÔI LÀ :


A / CÓ PHẢI TRƯỚC KHI XUỐNG TẦU BUÔN CỦA PHÁP LÀM PHỤ BẾP.....

Có phải trước khi xuống tầu buôn Pháp làm phụ bếp vào ngày 5 tháng 6 năm 1911 , thì chàng trai 21 tuổi Nguyễn Tất Thành , với tên mới là Văn Ba đã có sẵn ý định ra đi tìm đường cứu nước hay chưa ? . Nếu anh Ba đã có sẵn mục đích rõ ràng như sau này anh kể lại : " …Tôi muốn được đi ra ngoài , xem nước Pháp và các nước khác . Sau khi xem xét họ làm như thế nào , tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta… " , thì thật đáng quý biết bao . Tuy nhiên nó lại mâu thuẫn với một sự kiện sau do những tài liệu ở nước ngoài viết rằng : Ngày 15/9/1911 , khi vừa đặt chân đến cảng Mác-Xây (Marseille) – Pháp , tức là chỉ hơn 3 tháng sau khi rời bến Nhà Rồng - Sài Gòn , thì anh Thành đã vội vàng viết đơn xin được vào học nội trú Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale) . Nhưng đã bị nhà trường từ chối với lý do : Ðơn không được xét vì anh là đối tượng di chuyển tự túc đến Pháp chứ không phải được tuyển chọn từ xứ Ðông Dương sang , theo như quyết định ban hành ngày 30/4/1910 của Bộ Thuộc Ðịa Pháp . ( lá đơn này do ông Nguyễn Thế Anh sưu tầm được trong văn khố Pháp ngày 2/2/1983 , có sao chụp lại cẩn thận . Cũng cần lưu ý rằng theo những tài liệu trong nước thì : Trường Thuộc Ðịa là nơi chuyên đào tạo những tên Việt gian phản động , tay sai của thực dân Pháp lúc bấy giờ ) .

Giả sử câu chuyện trên là có thật thì sẽ có thêm một câu hỏi hệ quả là : nếu năm 1911 Trường Thuộc Ðịa chọn anh Thành , thì 9 năm sau anh có còn chọn con đường của Lênin cho cách mạng Việt Nam nữa hay thôi ? ( theo suy luận chủ quan của tôi thì có lẽ là anh Thành sẽ thôi ! ) .


B / PHẢI CHĂNG LÝ DO CHÍNH RỜI NƯỚC RA ĐI CỦA ANH THÀNH LÀ BỞI.....

Phải chăng lý do chính rời nước ra đi của anh Thành là bởi trước đó một năm , trong gia đình anh đã có một biến động lớn diễn ra ? . Ðó là : năm 1910 , cha anh là ông Nguyễn Sinh Huy , tức cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863 – 1929) , tri huyện Bình Khê - Bình Ðịnh , trong một cơn say rượu đã sai người đánh chết anh nông dân tên là Tạ Ðức Quang bằng roi và gậy . Sở mật thám Pháp sau khi điều tra xong đã kết ông vào tội ngộ sát khi đang say rượu . Hội Ðồng Nhiếp Chánh tại Huế sau đó đã ra quyết định kỷ luật : hạ bốn bậc trong ngạch quan lại thời bấy giờ , bị triệu hồi về Huế , rồi cuối cùng là ông bị sa thải luôn ( bà Thanh con gái ông cũng kể : ông là người nghiện rượu nặng , hồi nhỏ bà vẫn thường bị bố đánh rất đau bằng roi , có khi lại còn quẳng cả roi đi để đánh bằng tay ) .

Một số tài liệu lịch sử trong nước thì viết rằng : “ … Cụ Sắc nhà nghèo , ham học , thông minh , thi đậu phó bảng , " bị ép " ra làm quan . Có lần cụ nói : “ Quan trường là chốn nô lệ trong những người nô lệ , lại càng nô lệ hơn ” . Cụ thường làm những việc trái ý bọn quan lại , nên bị cách chức ” (!?) .

Như vậy là giữa hai nguồn tài liệu đã có những điểm mâu thuẫn lớn cần làm rõ , nhất là lý do ra khỏi chốn quan trường của ông : phải chăng ông ra khỏi đấy vì như ông nói là không muốn bị " nô lệ hơn " trong số những người nô lệ ? . Hay là bởi rượu đã đưa ông ra ? . Và vì bị ra khỏi chốn ấy nên ông lại càng uống nó nhiều hơn ?( nếu đúng là do say rượu làm chết người ta , thì cũng khó lòng mà phải ý ai được lắm ! ) .

Cũng qua những sách báo ở trong nước kể lại thì : khi từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ (tháng 10.1954) , ông đi thăm rất nhiều vùng quê trên miền Bắc , đi ra nước ngoài , v...v..... Nhưng riêng quê ông thì mãi tới ngày 16/6/1957 , tức là phải gần ba năm sau ông mới về thăm lần đầu . Có một cái gì đó không ổn trong tinh thần vì nước quên … quê của ông không ? . Hay ông ngại cán bộ , chiến sỹ và nhân dân biết tấn bi kịch trên của gia đình mình ?


C / AI LÀ NGƯỜI ĐÃ VIẾT CUỐN NHỮNG MẨU CHUYỆN VỀ ÐỜI HOẠT ĐỘNG CỦA HỒ CHỦ TỊCH ?

Ai là người đã viết cuốn Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch vào mùa xuân năm 1948 ? Cuốn sách ghi tác giả tên là Trần Dân Tiên . Năm 1985 , giáo sư Hà Minh Ðức đã xuất bản cuốn Những Tác Phẩm Văn Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh , trong đó có đoạn : " …Ðáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào và bạn bè trên thế giới . Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch… " ( Hà Minh Ðức , sách đã dẫn , Tr 132 , NXB Khoa Học Xã Hội , Hà Nội , 1985 ) .

Như vậy có nghĩa là tác giả Trần Dân Tiên và Hồ Chủ Tịch thực ra chỉ là một người . Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn , người biết rất rõ ông từ những năm 30 , khi cả hai cùng học tập và làm việc ở Liên Xô đã viết lời tựa cho cuốn sách cũng đã khẳng định như vậy . Tôi tin là hai giáo sư ấy viết đúng , vì hai lẽ :


Thứ Nhất , đó là việc rất quan trọng mà nếu nói sai thì chính hai giáo sư có thể sẽ bị mang họa , chắc chắn là hai ông đã cân nhắc rất kỹ trước đó .

Thứ Hai , cứ theo tư duy lôgic mà suy luận : nếu ông Trần Dân Tiên và cụ Hồ là hai người thì nay ông Trần Dân Tiên kia đâu ? . Còn sống hay đã chết ? . Nếu sống thì bao nhiêu tuổi rồi ? . Vợ , con ra sao ? . Nếu chết thì chết vào năm nào ? . Hiện chôn ở đâu ? v...v.....


Còn một khi lại chỉ là một người thì xét theo khía cạnh nào cũng đều không ổn . Chúng ta hãy nghe một vài đoạn Chủ Tịch Hồ Chí Minh viết về … Hồ Chủ Tịch như sau : " …Bác Hồ của chúng ta vô cùng khiêm tốn ; Bác không muốn kể cho ai nghe về hoạt động của mình ; rồi Bác Hồ được nhân dân ta coi là cha già của dân tộc ; Bác còn vĩ đại hơn Lê Lợi , Trần Hưng Ðạo vì đã đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa… " ! và nữa : " …Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta với đức tinh khiêm tốn nhường ấy và đang lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc , làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được !?… " ( Trần Dân Tiên , sách đã dẫn ). Cũng cần lưu ý rằng vào năm 1948 thì " vị cha già của dân tộc " ấy mới có 58 tuổi !

Trong thực tế nhân loại cũng đã có những người dùng quyền lực hay tiền bạc để bắt người khác ca ngợi mình . Nhưng nếu Hồ Chủ Tịch lại tự mình đứng ra làm việc đó thì quả là chuyện … xưa nay hiếm ! Theo tôi chỉ với một " đóng góp " ấy thôi thì cũng đủ để ông vi phạm hàng loạt những giá trị văn hóa mà ông cha ta từ bao đời nay vẫn hằng nâng niu , trân trọng .

Tôi cũng không rõ là những người đang " giữ gìn và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh " có coi đây như là một trong những " yếu tố cấu thành " nên tư tưởng của ông hay không ? . Và giả sử ở dưới cõi âm kia , nếu ông gặp các vị cách mạng đàn anh khác như Stalin , Mao Trạch Ðông , v...v..... thì không nói . Nhưng nếu không may , ông lại gặp Trần Hưng Ðạo , Lê Lợi thì biết " ăn , nói " thế nào cho phải với những vị anh hùng chân chính của dân tộc ấy đây ?

Một điều nữa đáng lo ngại hơn : trong cuốn Dàn Bài Tập Làm Văn lớp 7 ( NXB Giáo Dục 1997 , Tr 39 ). Tức là 12 năm , sau khi tác phẩm của giáo sư Hà Minh Ðức nói trên được xuất bản , thì các tác giả biên soạn cuốn sách giáo khoa kia vẫn tiếp tục mập mờ , mà không chịu viết thẳng ra đấy là hai hay chỉ có một người . Nếu cứ cung cấp thông tin và bắt các thầy cô giáo dạy học sinh theo kiểu này , thì đến ngay như người lớn cũng còn bị nhiễu loạn chứ nói gì đến trẻ con ?

Hồi đất nước còn chiến tranh , tôi đã được một sỹ quan Quân Đội Nhân Dân Việt Nam cho xem cuốn nhật ký của anh , trong đó có đoạn :

" Ngày 2 tháng 9 năm 1969 .
Hôm nay Ðài Tiếng Nói Việt Nam báo tin Bác Hồ bị bệnh nặng . Bác ơi ! Chúng cháu hiểu là chúng cháu thật có lỗi với Bác , vì đất nước đến lúc này vẫn còn bị chia cắt . Ðơn vị của chúng cháu đã được vinh dự nhận lệnh vào miền Nam chiến đấu , chỉ vài hôm nữa thôi là lên đường . Cháu xin hứa với Bác rằng : dù phải trải qua gian khổ , hy sinh đến đâu thì chúng cháu cũng quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ mà đảng và quân đội giao phó ; góp phần giải phóng miền Nam , thống nhất Tổ Quốc , để sớm được đón Bác vào thăm đồng chí , đồng bào trong ấy… " .

Cũng cùng một tinh thần đó , từ miền Nam , nhà thơ Lê Anh Xuân viết ra :

Gửi miền Bắc lòng miền Nam chung thủy
Ðang xông lên chống Mỹ tuyến đầu…

Nghĩa là tất cả đều hướng lên Ba Ðình tràn đầy một niềm tin trong sáng , một niềm kính trọng vô biên . Bởi vì ở nơi ấy " có Trung Ương Ðảng , có bác Hồ " luôn chỉ lối dẫn đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên . Theo tôi , nếu trong một cuộc chiến tranh , giả sử tất cả những yếu tố khác đều ngang nhau , thì bên nào có thêm yếu tố tin tưởng và kính yêu lãnh tụ như trên là sẽ rất có lợi thế để giành chiến thắng .

Thế nhưng , nếu vì muốn trở thành một " ngôi sao sáng vô ngần " mà chính vị lãnh tụ lại cho ra đời một sản phẩm kiểu như Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch , thì lại là điều không thể chấp nhận được . Bởi vì đó thực chất là quan điểm giành chiến thắng bằng mọi giá , mọi cách . Kể cả những cách rất thiếu tử tế : chủ động đi hủy hoại những giá trị văn hóa của nhân loại nói chung và dân tộc nói riêng mà hậu quả để lại sẽ rất nặng nề cho hậu thế . Bằng cách đó ở một giai đoạn nhất định , có thể ông cũng tự đưa được uy tín của mình lên vị trí rất cao trong lòng một bộ phận dân tộc . Xong nếu xét về lâu về dài , khi phần lớn đã nhận ra sự thật thì cái hình ảnh " Cả đoàn quân tiến theo Người như thác đổ " sẽ trở nên phũ phàng và thật đáng xấu hổ với bạn bè thế giới .

Tôi cũng được biết một câu chuyện sau : gia đình ấy có hai anh em ; người anh đi bộ đội , còn người em gái ở lại nhà và lấy chồng . Năm 1954 khi người anh từ chiến khu trở về thì em gái mình đã cùng chồng di cư vào Nam . Sau gần 30 năm xa cách , hai anh em mới được gặp lại nhau , khi người em ra Bắc bốc mộ cho chồng ; ông bị chết trong thời gian học tập cải tạo ở ngoài ấy . Cô em nói trong nước mắt giận hờn : " Tại anh và những người cộng sản như anh nên bây giờ em gái anh khổ , các cháu của anh phải mồ côi cha " . Xúc động không kém , người anh nói : " Thôi em ạ , đằng nào thì mọi việc cũng lỡ rồi . Em cứ nghĩ thế này : nếu một người em không hề tin yêu , kính trọng mà làm em đau khổ thì đấy chỉ là một nỗi khổ đau . Nhưng nếu đấy lại là người em hằng kính trọng , tin yêu bao năm trời , kể cả sẵn sàng đem cuộc đời của mình ra để hy sinh , cống hiến , mà nay em lại phát hiện ra rằng thực chất sự tin yêu , kính trọng ấy của mình lại bắt nguồn từ sự giả dối của người kia , thì lúc ấy nỗi đau khổ trong em sẽ phải nhân lên gấp năm , gấp mười . Ðấy chính là tâm trạng của anh lúc này , em ạ " . Trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta trong hơn nửa thế kỷ qua , đã có bao nhiêu con người và gia đình phải lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy ? .


D / MỘT VÀI ĐIỂM KHÁC CẦN XÁC MINH

Trong số những người Việt Nam hoạt động ở Paris vào những năm 1910s -1920s là chỉ có duy nhất một ông Nguyễn Ái Quốc hay là có đến năm ông Nguyễn Ái Quốc ? .

Vai trò của chàng trai Nguyễn Ái Quốc – Nguyễn Tất Thành trong các hoạt động như : thành lập Hội Người Việt Nam Yêu Nước , soạn thảo Bản Yêu Sách 8 Ðiểm Gửi Hội Nghị Véc-Xây năm 1919 , ra báo Người Cùng Khổ năm 1922 , viết Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp năm 1925 , v...v..... là tới đâu ? . Liệu có đúng như các sách báo trong nước hoặc chính Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã kể lại hay không ? . Bởi vì nếu theo các tài liệu " ngoài luồng " thì :

-   Hội Người Việt Nam Yêu Nước đã được thành lập tại Pháp từ năm 1914 , mà tiền thân của nó là Hội Ðồng Bào Thân Ái còn có trước đó nữa . Ðấy là do công lao của những ông Nguyễn Ái Quốc khác , chứ anh Thành lúc ấy lại không có mặt ở Pháp mà là đang mưu sinh ở Anh ! ( anh Thành ở Anh từ cuối năm 1913 đến 1917 . Cuối năm 1917 anh mới rời Anh để sang Pháp và là thường trú nhân ở đấy đến năm 1923 thì sang Liên Xô ).

-   Bản Yêu Sách 8 Ðiểm gửi hội nghị Véc - Xây có rất nhiều điểm trùng với những bản yêu sách đã có trước đó của cụ Phan Chu Trinh (1872-1926) gửi khâm sứ Trung kỳ , gửi toàn quyền Ðông Dương và gửi chính phủ Pháp . Như vậy có phải như Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã kể : " …Ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra , nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết , vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp… " ( Trần Dân Tiên , sách đã dẫn ) . Hay những ý kiến ấy phải là của cụ Phan Chu Trinh mới đúng ? . Vì cụ Phan đã có mặt và hoạt động ở Paris liên tục trước đó , cụ cũng là sáng lập viên của Hội Ðồng Bào Thân Ái ( cụ Phan thi đậu phó bảng năm 1901 , cùng khóa với cụ Nguyễn Sinh Sắc , thân sinh anh Thành ) .

-   Báo Người Cùng Khổ (Le Paria) là do những " ông Tây " (người Pháp) lập ra , chứ đâu phải của một " ông ta " nào như sự xác nhận sau : " …Ban biên tập báo Người Cùng Khổ do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm , kiêm chủ bút , giao cho Nguyễn Thế Truyền là một Việt kiều được anh Nguyễn giới thiệu vào Hội Hiệp Thuộc…(?) " ( Trần Dân Tiên , sách đã dẫn ) .

Bây giờ giả sử đúng là có ông Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm , kiêm chủ bút tờ báo kia đi , nhưng chính xác là ông Nguyễn Ái Quốc nào ? Vì ở Paris lúc ấy , như trên đã nói là có tới năm ông Nguyễn Ái Quốc , còn gọi là nhóm Ngũ Long gồm các ông :

-  Phan Chu Trinh , sang Pháp năm 1911 / phó bảng ;
-  Phan Văn Trường , sang Pháp 1908 / luật sư ;
-  Nguyễn Thế Truyền , sang Pháp 1910 / cử nhân ;
-  Nguyễn An Ninh , sang Pháp 1917/năm thứ 2 trường luật ;
-  Nguyễn Tất Thành , sang Pháp 1917 / tiểu học ;

Ai ở trong nhóm viết bài cũng ký tên là Nguyễn Ái Quốc .

Ngoài ra chúng ta cũng phải tìm hiểu thêm cả việc ai đã giới thiệu ai ? . Vì anh Thành mới chân ướt chân ráo đến Pháp, thì nào đã quen biết ai mà giới thiệu cho ông Nguyễn Thế Truyền - một người đã ở đấy lâu hơn , bằng cấp cũng cao hơn anh ? ( ông Truyền có hai bằng cử nhân văn chương và hóa học , có vợ người Pháp ) .

-   Cũng theo Những Mẩu Chuyện Về Ðời Hoạt Ðộng Của Hồ Chủ Tịch thì :

" … Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển Bản Án Chế Ðộ Thực Dân Pháp… " , thế nhưng với điều kiện thông tin lúc đó , thì theo tôi chính quyển này mới là quyển ông ít có cơ hội tham gia nhất . Bởi vì cả tài liệu trong và ngoài nước đều xác nhận rằng : cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Pháp vào năm 1925 , nhưng lúc ấy thì ông Nguyễn không có mặt ở Pháp , mà là đang hoạt động ở Trung Quốc ! ( ông ở đấy từ tháng 11/1924 đến tháng 5/1927 ông mới rời khỏi đấy để sang lại Liên Xô ).

Hơn nữa , cứ giả sử các tài liệu đều viết sai về năm xuất bản , thì cũng cần lưu ý là : chính anh Thành cũng đã phải công nhận rằng anh là người có bút lực yếu ở trong nhóm , nếu như không muốn nói là yếu nhất . Vì anh Thành chỉ mới tốt nghiệp trường tiểu học Pháp – Việt Ðông Ba , Huế niên khoá 1906-1907 . Tháng 9/1908 anh vào học trường Quốc Học Huế , nhưng chưa đầy một năm sau (tháng 5/1908) thì đã bị đuổi khỏi đấy rồi . Tức là tấm bằng Thành Chung đối với anh cũng vẫn còn xa vời !

Tiện đây , chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm cả việc có đúng là anh Thành đã tốt nghiệp bậc tiểu học đạt hạng ưu , như trang tiểu sử trên đã viết hay không ? . Vì tấm bằng học vấn duy nhất mà anh đạt được trong đời ấy thì nay không ai thấy . Tuy nhiên nếu chỉ căn cứ vào chữ viết thì cũng khó có cơ sở để kết luận rằng đây là một học sinh giỏi được . Bởi một lẽ đơn giản là : ở bậc tiểu học thời ấy hay thời nay cũng vậy , và dù các thầy cô giáo có theo trường phái ta hay tây học gì, thì cũng rất chú trọng đến việc đánh giá chất lượng bài làm của thí sinh qua chuyện viết chính tả , nhưng rất tiếc là về điểm này thì anh Thành lại quá yếu ( cứ nhìn vào các bút tích của Hồ Chủ Tịch cũng đủ thấy ) .

Cuối cùng , giả sử rằng các thầy giáo hồi ấy đã châm trước cho chuyện viết chữ xấu của anh , và tấm bằng hạng ưu kia là có thật , thì cũng không có gì đáng kể mà phải làm ầm ĩ . Vì khi giành được nó thì anh Thành cũng đã 17 tuổi rồi (1890 – 1907) .

Theo tôi , với bất cứ ai , dù có là vĩ nhân đi chăng nữa nhưng nếu chỉ dựa trên nền tảng học vấn ấy , thì nội việc đi tiếp thu tư tưởng của người khác cũng đã là quá sức rồi , chứ nói chi đến việc còn hình thành nên được một cái gì đó gọi là “ tư tưởng ” cho mình , rồi hôm nay lại còn bắt cả một dân tộc phải đi theo .

Nói tóm lại , những điểm còn chưa rõ ràng trong thân thế và sự nghiệp của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là còn rất nhiều . Một lần nữa tôi rất mong các nhà nghiên cứu , các sử gia ở cả trong và ngoài nước hãy vì tính trung thực , khách quan của lịch sử và nhất là vì thế hệ trẻ Việt Nam tương lai , để xác minh cho được chúng càng sớm càng tốt .

Viết về Chủ Tịch Hồ Chí Minh , lại lật ngược những vấn đề khá phức tạp và tế nhị lên như thế này , tôi hiểu rằng sẽ làm cho nhiều người vốn tôn kính ông đau lòng . Nhưng theo tôi , thà làm như vậy một lần cho rõ còn hơn là cứ dễ dãi với nhau , để rồi tự làm khổ nhau và làm khổ mãi con cháu chúng ta sau này .



3 . MỘT Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ


Như ở đầu bài đã nêu , từ 11 năm qua đã có rất nhiều bài viết với hai xu hướng ngược nhau : thứ nhất , khẳng định rằng Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã được UNESCO chính thức công nhận là danh nhân văn hóa thế giới . Thứ hai là phủ nhận nó .

Nay tôi xin có một ý kiến đề nghị : dù ai thuộc xu hướng nào cũng được, nhưng nếu đã có tấm lòng quan tâm, mong rằng hãy cùng nỗ lực giải quyết dứt điểm vấn đề này . Ðối tượng tiếp cận chính là UNESCO, đây là vị trọng tài khách quan , vô tư và hữu hiệu hơn cả . Sẽ có hai khả năng xảy ra :


a)   Nếu Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã thực sự được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới thì với tinh thần trung thực , những cơ quan nào đã đưa tin sai lạc trước đó cần ra một bản tin đính chính lại . Ðó cũng là hành động thể hiện sự tôn trọng các độc giả , thính giả của mình .

b)   Nếu UNESCO chưa hề có một quyết định như giả thiết " a " nêu trên , thì cá nhân hay tổ chức nào có điều kiện tiếp cận được với tổ chức ấy , cần làm sao có được một văn bản phủ nhận chính thức của họ . Dù chỉ là vài dòng thôi , nhưng nó sẽ có tác dụng thuyết phục mọi người hơn là hàng chục , hàng trăm bài báo mà chúng ta cứ cố gắng viết tới viết lui , xong lại không có ai đứng ra làm trọng tài .


Ðây cũng là trách nhiệm của mỗi người nhằm giúp UNESCO . Nó cũng là quyền lợi của UNESCO cần phải tự bảo vệ mình , khi có ai hoặc quốc gia nào lợi dụng uy tín của họ để làm những việc khuất khúc . Tôi cũng rất mong rằng nếu trường hợp là " b " thì những nhà biên soạn sách giáo khoa ở Việt Nam cần rà soát lại toàn bộ những điểm liên quan và điều chỉnh chúng cho đúng sự thật .



4 . MỘT Ý KIẾN ỦNG HỘ


Trong bức thư ngỏ viết vào tháng 5/2001 vừa qua của hai tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân , gửi tân tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam Nông Ðức Mạnh có một ý kiến đề nghị là : Hãy hỏa táng thi hài của Hồ Chủ Tịch . Bức thư giải thích rằng : những người lãnh đạo đảng và nhà nước vào thời điểm Chủ Tịch Hồ Chí Minh qua đời đã vi phạm ý nguyện ghi trong di chúc của người quá cố ( trong đó ông đã viết rõ ràng như sau : “ …Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi , tức là hỏa táng . Tôi mong rằng cách hỏa táng sau này sẽ được phổ biến , và như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh , lại không tốn đất ruộng . Khi ta có nhiều điện thì điện táng càng tốt hơn… ” ) . Và nay thì những người lãnh đạo mới cần phải sửa lại sai lầm ấy , nếu cần thì tổ chức một cuộc Trưng Cầu Dân Ý về vấn đề này . ( xem website: http://www.thongluan.org/VN2/viet_frame.htm,4.6.2001) .

Hai tác giả cũng phân tích thêm rằng : hình thức ướp xác , tức chôn nổi là hoàn toàn không phù hợp với phong tục tập quán của người Việt Nam , vốn quen với hai hình thức phổ biến là địa táng hoặc hỏa táng . Rồi cảnh báo là nếu không nghiêm chỉnh tuân theo di chúc của người đã khuất , thì gia đình dòng họ và đất nước luôn bị " sái " , không ngóc đầu , ngóc cổ lên được . Ngoài ra còn là chuyện lãng phí tiền bạc : để duy trì hệ thống lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh thì hàng năm phải tốn kém 100 tỷ đồng Việt Nam , dù đấy là tiền thuế đóng góp của nhân dân hôm nay hay là đi vay mượn của nước ngoài , thì sau này con cháu chúng ta cũng phải nai lưng ra trả nợ .

Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến trên và tin rằng nguyện vọng của đa số nhân dân Việt Nam hôm nay cũng là như vậy . Chúng ta chỉ cần thử làm một bài toán nhỏ : để xoá đói giảm nghèo cho một hộ gia đình nông dân , theo hai tác giả là cần năm triệu đồng Việt Nam tiền vốn , giả thiết mỗi hộ có bốn người . Như vậy tổng chi phí cho công trình ấy trong suốt 26 năm qua là 2600 tỷ đồng Việt Nam ( không tính chi phí xây lăng ) , là một số tiền rất lớn , đủ để giúp hơn hai triệu người Việt Nam thoát khỏi cảnh đói nghèo ; còn nếu mỗi hộ cần 10 triệu đồng tiền vốn , thì cũng giúp được cho hơn một triệu người . Nhưng theo tôi , cái chính của vấn đề là sự lãng phí kia rất vô lý , không đáng có .

Ngoài ra tôi cũng xin được bổ xung một ý kiến nữa , hy vọng rằng nó sẽ góp thêm cơ sở để dân tộc cùng dứt khoát hơn với đề nghị trên của hai tác giả . Ý kiến của tôi liên quan đến khía cạnh kiến trúc của lăng :

Kể từ khi lăng được khánh thành nhân dịp quốc khánh mùng 2/9/1975 đến nay , thì từ những người dân bình thường tới các kiến trúc sư , nhà xây dựng , v...v..... , từ Bắc chí Nam mà tôi có dịp được tiếp xúc , phần lớn đều cho rằng : công trình này không có những đường nét của kiến trúc hiện đại , cũng lại rất nghèo tính dân tộc ( mà chỉ được dựng nên bởi sự giầu quyết tâm của bộ chính trị Ðảng Lao Động Việt Nam lúc đó ) .

Tức là nếu xét thêm về khía cạnh kiến trúc , thì cũng không có giá trị gì đáng kể để mà phải tiếc nuối nó nữa . Có lẽ vì chạnh lòng với công trình quốc gia khá nặng nề và đơn điệu này , ai đó đã sửa lại lời những câu đầu của bài hát " Viếng Lăng Bác " ( Nhạc Hoàng Hiệp , thơ Viễn Phương ) mà thành : " Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác , con thấy lăng Ông đẹp hơn lăng Bác , trăm phần trăm ,… ! " ( lăng Ông : lăng ông Lê Văn Duyệt - một võ tướng đầu triều Nguyễn , lập tại khu Bà Chiểu - Sài Gòn ; trăm phần trăm = 100% ) .



5 . NHỮNG LỜI THAY CHO KẾT LUẬN


Trong diễn văn đáp từ của nguyên tổng bí thư Ðảng Cộng Sản Việt Nam Lê Khả Phiêu đọc tại Hà Nội ngày 18/11/2000 vừa qua , nhân dịp tổng thống Mỹ lúc ấy là Bill Clinton sang thăm Việt Nam có đoạn : " …Ðiều chắc chắn là trong thế kỷ 21 , khoa học công nghệ sẽ phát triển như vũ bão . Nhưng lại có một nghịch lý là hố ngăn cách giữa nước giầu và nước nghèo lại ngày càng lớn . Ngày nay , tổng số tài sản của hơn 300 tỷ phú trên thế giới bằng thu nhập của hơn hai tỷ người ở các nước nghèo… " .

Ðúng ! đấy là thực tế , và người đọc hiểu ngay rằng ý ông muốn nhấn mạnh đến sự bất công của một thế giới ngày càng bị phân hóa giầu – nghèo hôm nay . Nhưng còn một thực tế nữa là : liệu những người lãnh đạo trong Ðảng Cộng Sản Việt Nam trước và sau ông , có dám làm triệt để việc kê khai danh sách của 300 người giầu nhất ở Việt Nam hôm nay hay không ? . Họ là những ai ? . Có bao nhiêu tiền ? . Ðể ở những đâu ? . Bằng cách nào họ đã làm giầu được nhanh như vậy , khi không phải là của ông bà hay cha mẹ họ để lại ? . Tổng số tiền mà họ đã tích lũy được là bằng thu nhập của bao nhiêu triệu người nghèo ở Việt Nam ? , v...v.....

Theo tôi sự khác nhau về chất của vấn đề là ở chỗ : 300 nhà tỷ phú trên thế giới kia hoàn toàn có quyền tự hào chính đáng về con đường làm giầu của họ , càng giầu bao nhiêu thì họ lại càng tự hào bấy nhiêu . Còn nếu như có một danh sách tương tự ở Việt Nam ( đa triệu phú USD chẳng hạn ) , thì chưa chắc những người có tên trong danh sách lại có được niềm tự hào đó . Chẳng phải là cũng đã từng hô hào rất nhiều , nhưng ở Việt Nam không ai dám làm cái việc kê khai này tới nơi tới chốn đó sao ? . Tôi tin là ông Lê Khả Phiêu cũng rất thấm thía điều này .

Một cuộc Trưng Cầu Dân Ý như hai tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân đề nghị , nếu nó được tiến hành sẽ là cuộc tổng diễn tập cho một bước dân chủ cao hơn . Ðó là : dân tộc Việt Nam phải được quyền tự mình lựa chọn giữa thể chế chính trị dân chủ đa nguyên và đa đảng của thời đại mới , hay là cứ phải tiếp tục duy trì mãi thể chế nhất nguyên , đơn đảng của " thời đại Hồ Chí Minh " đầy đau thương hôm qua , lắm bất công hôm nay và vô vàn những rủi ro , bất trắc vào ngày mai . Tôi nghĩ rằng nếu toàn thể dân tộc ta ở cả trong và ngoài nước , một khi đã nhận thức lại được đúng những vấn đề của quá khứ và hiện tại , thì sẽ vượt qua được những khoảng cách biệt còn lại . Ðể trong tương lai có thể đoàn kết thành một khối thống nhất , tạo ra một sức mạnh tổng hợp, nhằm đấu tranh có hiệu quả hơn với các thế lực bảo thủ hiện nắm thực quyền trong Ðảng Cộng Sản Việt Nam .

Trong thực tế có những người giận ngày " quốc hận " 30 tháng 4 , giận mùa xuân năm 1975 , rồi giận lây sang cả mùa thu năm 1945 với cuộc Cách Mạng Tháng 8 lịch sử , vì cho rằng đây là chiến công riêng do Chủ Tịch HỒ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản Ðông Dương lúc đó lãnh đạo . Theo tôi đây là điều chứa đựng nhiều sai lầm , bởi vì để có được sự thành công của cuộc CMT8 phải là do chiến công chung , trong đó có cả vai trò của các đảng phái khác . Tất cả lúc ấy đều đã sẵn sàng gác bỏ mọi quyền lợi riêng , để cùng đồng lòng đứng lên giành lại nền độc lập tự do cho Tổ Quốc .

Nó cũng là kết quả được hun đúc bởi truyền thống dựng nước và giữ nước từ ngàn đời xưa , từ lịch sử gần 100 năm kháng Pháp của ông cha ta , và mọi người Việt Nam đều có quyền tự hào chính đáng về nó .

Với một nước Việt Nam mới , chắc chắn trang sử hào hùng ấy của dân tộc cũng phải được các sử gia viết lại cho khách quan và chính xác hơn . Một ngày hội lớn về dân chủ của non sông nhất định sẽ được mở ra trong tương lai , khi mà khối đoàn kết toàn dân gồm 80 triệu người , với hơn 76 triệu đồng bào ta ở trong nước và gần ba triệu đồng bào ta ở ngoài nước đã được xác lập . Ðó là niềm tin mãnh liệt của tôi !




Phương Nam – Australia .
Tháng 7 năm 2001 .



No comments:

Post a Comment